Một Lần Đi Lướt Qua Đời Nhau

Cuộc sống thường cho con người những thử nghiệm tưởng như không thể vượt qua. Đẹp biết bao nếu người ta trải qua những khắc nghiệt của cuộc sống mà vẫn có thể giữ được trong tâm hồn mình nhiều nét cao quý!

–    Ê, làm gì ở đây zợ?

+ …

–    Ê, sao tui hỏi mà hổng trả lời?

+ Ở đây có ai tên là ê đâu nhóc!

–    Tui hổng giỡn à nghen… Ông làm gì chui zô ngồi trong vườn nhà tui?

+ Ủa, đây là vườn nhà nhóc hả? Có làm gì đâu, chỉ ngồi học bài thôi…

–    …hiiii… học bài gì mà ngồi thu lu dưới gốc cây, giống ông địa trên bàn thờ nhà tui quá!

+ …

–    Nè, đang học cái gì zậy?

+ Học bài

–    Học bài là học cái gì?

+ Nhóc hỏi nhiều quá, im lặng một chút cho người ta học coi…

+ … Xong rồi, thuộc hết rồi ! Nhóc, cầm cái quyển vở này ! kiểm tra coi anh có thuộc được hết chưa hen.

Cô nhóc vụt đứng lên, ù chạy vào nhà. Nhóc này lạ thật !

***

–    Nè, hôm qua tui nghe có tiếng thổi sáo ở ngoài này. Là ông thổi hả?

+ Ông ông tui tui gì… Nhóc nhỏ tuổi, phải gọi anh bằng anh, xưng em…

–    Anh cái con khỉ! lớn hơn ông tui còn gọi bằng thằng được nữa là! Quen rồi…

+ ….

–    Nè, học sắp xong chưa ?… thổi sáo đi !

+ …

–    Người gì mà chảnh, thấy ghét !

+ Nhóc! con gái lớn rồi, sao mà nói chuyện cộc cằn vậy ?

–    Kệ tui… mà nè ông ở đâu mới tới đây hả ?…

+ …

–    Hổng trả lời thì thôi… thấy ghét !

Đúng nó là kẻ ở xa mới tới. Gia đình nó chuyển đến đây để làm ăn. Cái thị trấn nhỏ này lạ quá. Nhịp sống, nhịp sinh hoạt, khung cảnh… mọi thứ đều khác với quê nó. Nó cứ phải làm quen với mọi thứ từ đầu.

Những đứa trẻ ở thị trấn này khác nhiều so với mấy đứa nhỏ ở quê nó. Như cô bé này chẳng hạn, lanh lợi nhưng lại đanh đá và ăn nói bổ bã… nản ghê!

***

Mấy ngày nay con bé thắc mắc lắm. Thắc mắc về cái người cứ thu lu ngồi trong vườn nhà nó. Ở khu này, vườn của người ta không cần rào chắn gì hết. Người ta có thể đi xuyên suốt từ vườn nhà này sang vườn nhà kia. Vườn nhà con bé rợp bóng cây và lặng lẽ khác với cái ồn ào xô bồ ngoài mặt đường thị trấn. Chắc vậy nên cái lão này mới hay ngồi dưới gốc cây nhà nó để học. Mà cái lão này ham học ghê. Học để làm gì nhỉ ? Chắc là để kiếm được nhiều tiền !

Còn nó, nó sướng hơn lão, vì được sinh ra là con gái. Mẹ nó nói con gái thì không cần phải học. Sinh ra là con gái, thiếu gì cách để kiếm tiền. Giống như mấy chị của nó, có phải học hành gì đâu mà tiền bạc thì lúc nào cũng rủng rỉnh.

Con bé được sinh ra ngay giữa lòng thị trấn. Từ nhỏ tới lớn, nó có biết trường học là cái gì đâu. Nó được quẳng ra đó để lớn lên một cách tự nhiên, tự quan sát người ta, tự học hỏi, tự sống. Là con nít, nó biết học ai ngoài mẹ và các chị của nó.

Hồi nhỏ, nó thấy mẹ và chị thường có nhiều khách. Mà lạ ghê, cứ mỗi lần có khách là mẹ biểu nó đi chỗ khác chơi, đừng có tò mò chuyện của người lớn ! Dần dần nó hiểu hơn chuyện của người lớn là chuyện gì. Bằng tuổi này, nó chưa là người lớn, nhưng cũng đâu còn là một đứa con nít. Nhà chung một cái sàn gỗ. Mấy cái bức bình phong mỏng manh đâu có thể che được mắt nó những cái chuyện mấy người lớn kia đang làm. Có những tối, nó nghe cái sàn gỗ rung lên bần bật. Trong chập chờn giấc ngủ, nó nghĩ chắc người ta đang làm chuyện người lớn! Kệ…

Nó lại nhớ tới cái lão thu lu ngồi trong vườn nhà mình. Lần đầu tiên có người gọi nó là nhóc. Ở đây có ai kêu nó là nhóc đâu. Người ta kêu nó là con đĩ con. Nó không hiểu đĩ con nghĩa là cái gì. Mà nó cũng chẳng cần quan tâm.

Mà không hiểu sao nó cứ thấy cái lão này đáng nghi nghi sao ấy. Nó nghe mẹ hay nói với mấy chị của nó đừng có tin bất cứ thằng đàn ông nào hết, trừ những thằng có tiền. Vậy nên nó thấy cái lão này đáng nghi…

***

Ba năm trôi qua nhanh thật. Đủ để thằng nhóc quen với môi trường mới. Đủ để con nhóc lớn lên thành một nàng thiếu nữ xuân thì. Đủ để con nhóc thân với thằng nhóc. Đủ để thằng nhóc có một chút ảnh hưởng nào đó trên con nhóc. Và đủ để có những đổi thay và trên cuộc đời của mỗi người.

Tối hôm đó, thằng nhóc ngồi một mình ngoài góc vườn trên cái mô đá quen thuộc.

–    Sao anh ngồi một mình ngoài này… chuẩn bị đi học xa phải không ?

+ Học hành gì nữa nhóc…

–    Anh đăng kí đi học đại học chưa ?

+ Không đi đâu hết, nhóc. Ở nhà đi làm kiếm tiền thôi…

–    Sao không đi…

+ Anh thi rớt rồi

–    Anh nói xạo… nhỏ bạn em nói anh đậu tốt nghiệp cao nhất trường

+ Cao nhất trường…. thì để làm gì hả nhóc? Có kiếm được ra tiền đâu

–    Anh đừng có như vậy mà, em xin anh đấy! Anh phải khác với mấy người đàn ông khác… giống như em đã nghe lời anh cố gắng sống khác với các chị của mình.

+ …

–    Em biết anh còn có một cuộc sống khác, một cuộc đời khác. Đừng để cái thị trấn này kìm chân mình lại. Đừng để những cái tạp nhạp tầm thường kéo mình xuống… anh ơi !

+ Ừa…

–    Em cám ơn anh…

+ Sao mà cám ơn ?

–    Vì anh đã thương em, đã dạy cho em biết bao nhiêu điều… và anh không có lợi dụng em!

Quả thật nó thương con nhóc chứ. Sống giữa một môi trường đầy dẫy những gương mù gương xấu, lạ làm sao cô bé vẫn giữ được cái thanh thoát và trong trắng đến kỳ lạ. Nhìn cô bé, nó lại nghĩ đến hình ảnh của đóa sen giữa đầm lầy… Nó đã cố công để nâng đoá sen mọc lên. Đẹp và thơm ngát.

Còn nó, từ ngày bước chân vào thị trấn này, nó thấy mình mỗi ngày một nên khác. Nhịp sống ở thị trấn dạy cho nó rằng muốn sống người ta phải biết cách kiếm tiền. Những lý tưởng sống đẹp của nó dường như càng ngày càng tắt lịm đi và trở nên thực dụng hơn. Nó thấy người ta không cần học mà vẫn có thể kiếm được nhiều tiền, vẫn có thể ra đời với cái mặt vênh vênh váo váo. Còn nó, đèn sách để mà làm gì ? Học hành để mà làm gì ?… Bao nhiêu năm được ăn học, được dùi mài sách vở ở ghế nhà trường, nó thấy mình vẫn chưa làm được gì cho bố mẹ cả. Những tháng ngày bố mẹ phải lao đao lận đận nơi đất khách, những lần bố mẹ phải chống chọi với chuyện tiền bạc nợ nần và bị người ta chửi bới… nó thấy mình chỉ là một thằng con trai vô dụng.

Có những lúc nó chỉ muốn bỏ học để lao vào kiếm tiền. Nó không tin rằng mình kém khôn ngoan hơn người ta. Nó không tin rằng mình sống không lại người ta. Ba năm sống nơi đất lạ đủ để cho nó chứng kiến nhiều mánh khóe lật lọng giữa dòng đời. Nó không tin rằng mình không làm được tất cả những điều ấy. Nếu cuộc sống cứ bắt người ta phải trở nên dữ tợn để mà sống, nó không tin rằng mình không có khả năng để trở thành dữ tợn. Với những bạc đãi mà cuộc sống nơi đất lạ dành cho gia đình nó, nó tin rằng mình còn có thể trả lại nhiều hơn thế…

Nó biết ba mẹ muốn nó học hành để có một tương lai tốt đẹp. Nó cũng đã nhiều lần thuyết phục mình như thế. Nhưng những lúc phải đối diện với những quá đáng của cuộc sống, mà nạn nhân không ai khác hơn chính là gia đình đơn sơ chân chất của nó, nó chỉ muốn đạp đổ tất cả. Nó muốn lao mình vào đời để trả lại sòng phẳng tất cả những gì cuộc đời đã gây ra cho gia đình nó.

Nó vật vã chiến đấu với chính mình. Nó sợ những điều tốt đẹp đang chết dần chết mòn trong nó. Nó mường tượng nhận ra những thấm nhiễm từ cái môi trường sống này cứ mỗi lúc một lớn dần lên trong mình. Biết làm sao được, người ta sinh ra và lớn lên giữa lòng một xã hội đầy những vấn đề. Họ kế thừa những vấn đề ấy. Họ sống với những vấn đề một cách tự nhiên như thể chúng đã là một phần trong cuộc đời mình. Đâu phải con người không có khả năng phân biệt phải trái, nhưng sống hoài giữa những cảnh trái khoáy, họ dễ trở thành quen. Tha hóa là cái nguy cơ luôn có trong mỗi con người.

Nó đã tình cờ đi qua đời con nhóc, và kéo con nhóc ra khỏi cái vũng bùn. Lúc này, hình như lại đến lượt nó cần được kéo ra. Đời chúng nó cần có nhau. Giữa cái bãi bùn tạp nhạp của cuộc đời, nó cần lắm được nhìn thấy một chút trong trắng và thanh thoát của lòng người. Nó cần một chút niềm tin. Chỉ một chút niềm tin thôi, nó sẽ được cứu rỗi…

……….

–    Anh có tin vào những cuộc gặp gỡ cơ duyên không ?… Em thì tin. Em biết rằng trong cuộc đời có những cuộc gặp gỡ chỉ tình cờ, nhưng nó có khả năng thay đổi toàn bộ cuộc đời của người ta…

………

Thằng nhóc đi. Tiếp tục hành trình tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn, sống cho những điều tốt đẹp hơn.

Một thời gian sau con nhóc cũng đi.

Thị trấn vẫn đều đều trong nhịp sống quen thuộc. Lâu lâu nhắc tới con nhóc, người ta lại trề môi. Cái con, chắc là đã bỏ nhà theo trai chứ gì! Mẹ nó thế, chị nó thế, thì nó cũng thế thôi! Gì chứ cái ngữ ấy mà bỏ nhà theo trai thì cũng đâu có gì là lạ…

Sống với hàng loạt vấn đề, người ta dễ đinh ninh vào những nhận định của mình và thích đưa ra những lời kết án. Hình như họ thường tìm thấy một chút thỏa mãn nào đó trong việc kết án người khác. Đạp người khác xuống, người ta dễ thấy mình cao hơn.

Phải chăng vì người ta thường không tin vào sự trong sạch của những kẻ lớn lên từ vũng bùn, nên họ vẫn cứ cắm cúi lao đầu vào trong những vũng bùn của cuộc sống ?!!

Họ đâu biết rằng giữa đời có những cuộc gặp gỡ tình cờ có thể làm thay đổi trọn vẹn cuộc đời của người ta. Có khi chỉ là một lần đi lướt qua đời nhau…

Roma – Những ngày cuối năm 2008

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn  Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp TpHCM, 2014, tr. 67-78

Advertisement

Kinh Tối

Nó không thích đọc kinh tối. Nếu được phép nói thật lòng mình, nó sẽ hét to lên: con ghét đọc kinh tối lắm! Dù sao thì đó chỉ là chuyện thích hay không thích của một đứa con nít. Trong gia đình sống chung ba thế hệ thì một đứa con nít như nó chả bao giờ có cơ hội để mà hét toáng lên điều mình thích hay không. Thế nên cứ mỗi tối, nó lại nghiêm chỉnh như một thằng cháu ngoan, đong đưa hai chân trên ghế, lấy hết hơi hết sức để đọc thật to những kinh kệ mà nó đã thuộc nằm lòng… Nghe nó đọc kinh, ông bà nội thỉnh thoảng nhìn nhau mỉm cười.

Hồi đó, chả bao giờ nó có thể dự trọn vẹn một buổi kinh tối. Con nít, lấy đâu hơi sức mà đọc cho hết các kinh từ đầu buổi tới cuối buổi. Hét toáng lên được một hồi thì giọng của nó cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Rồi trong cái thanh âm rì rầm đều đều của cả đại gia đình, nó bắt đầu gục gà gục gặc, rồi chìm vào trong giấc ngủ lúc nào cũng chẳng biết. Nó đánh một giấc ngon lành, cho đến sáng dậy thì thấy mình đang nằm trong mùng của bà nội. Cứ thế, giấc ngủ của tuổi thơ nó được ru đều bởi lời kinh của cả gia đình, bởi hương trầu dìu dặt của bà nội.

Từ khi trong xóm có được vài chiếc Tivi trắng đen, nó tham dự giờ kinh tỉnh táo hơn. Nghĩa là vẫn hét toáng lên ở đầu buổi, gục gà gục gặc ở giữa buổi, nhưng càng về cuối buổi nó càng tỉnh. Tỉnh để sau đó còn được bà nội dẫn đi xem cải lương. Nó mê cải lương chẳng kém gì bà nội, dù rằng buổi xem cải lương của hai bà cháu bao giờ cũng kết thúc bằng cái cảnh bà nội một tay xách tấm chiếu, một tay ẵm nó đã ngủ khò khò từ khi nào. Sáng ra nó cằn nhằn phụng phịu: “Sao bà nội hổng chịu gọi con dậy để xem cho hết tuồng… rồi Công Chúa có cứu được Phò Mã Cùi khỏi tay bà Nữ Chúa Rắn hông nội?” Sáng sớm, còn trong mùng, bà nội rì rầm kể lại cho nó nghe đoạn kết của vở tuồng hôm trước. Nhảy tót xuống giường, nó chạy đi tìm ông nội để líu lo kể lại, như thể ta đây tham dự từ đầu buổi tới cuối buổi, ta đây có thể kể lại vanh vách. Bà nội nhìn nó cười tủm tỉm.

Nói gì thì nói, nhờ có mấy tuồng cải lương và mấy vở kịch trên Tivi mà giờ kinh tối của nó được thêm nhiều hương vị. Nghĩa là miệng nó vẫn đọc kinh mà trong đầu thì đầy ắp hình ảnh của các nhân vật cải lương, cổ tích. Nó tưởng tượng Chúa như ông Tiên đã hiện ra dạy cho chàng Thạch Sanh phép thuật, nó cầu nguyện để ở tập tới ông Tiên lại hiện ra cứu chàng khỏi tay gã Lý Thông độc ác và cưới được Công Chúa. Có lúc, nó lại thấy Chúa là ông Bụt trong vở Tấm Cám, vừa quyền phép vừa luôn hết lòng yêu thương và bảo vệ người nghèo. Lâu lâu, Chúa lại mang hình ảnh của ông Vua nhân từ và khôn ngoan như trong tuồng Cánh Hồng Giữa Hoàng Cung… Từ đó, giờ kinh tối của nó luôn đầy ắp những hình ảnh vừa đẹp đẽ vừa thánh thiêng, là nơi để nó gởi gắm và xây dựng những nguyện ước đơn sơ trong sáng của tuổi thơ. Tối tối, trong nhịp kinh đều đều, trong tiếng phe phẩy nhẹ nhàng của chiếc quạt giấy trên tay ông nội, trong mùi trầu hăng hăng của bà nội, mùi hương bồ kết thoang thoảng từ mái tóc mới gội của cô Út… nó thả mình vào khung trời mơ.

Khi nó lớn hơn một chút, đủ để biết cách đọc kinh tối mà không cần phải gây ồn ào, không còn bị ngủ gục, thì cả ông bà nội đều mất. Ông bà cùng dự giờ kinh với nó từ trên một góc nhỏ của bàn thờ. Một cách mơ hồ, nó tin rằng ông bà nội trên bàn thờ đang nhìn nó, đang nghe tiếng nó đọc kinh, đang cùng cầu nguyện với nó. Nó xin ông bà nội cầu nguyện với Chúa cho gia đình nó bình an, cho ba má nó sức khỏe, cho anh em nó học hành giỏi giang…

Gia đình nó chuyển đi làm ăn xa. Đi trong đêm. Nơi xứ lạ quê người, cả gia đình nó vẫn tiếp tục thói quen đọc kinh tối, như một phần sinh hoạt không thể thiếu của gia đình. Ba má nó vẫn thành kính, mấy đứa em nó vẫn đơn sơ dâng lời nguyện trong đêm. Chỉ có nó là khác.

Nó mơ hồ nhận ra những nghi nan đang ngày càng lớn dần giữa lòng mình. Những thăng trầm nghiệt ngã trong hoàn cảnh của gia đình bắt nó phải đặt lại câu hỏi về vị Chúa mà nó hằng cầu nguyện. Chúa có yêu thương người ta hết không? Chúa có quyền phép thật không? Tại sao Chúa đã liên tục làm ngơ trước những thăng trầm của gia đình nó? Chúa hình như đã chẳng bênh vực người nghèo trước những áp đặt và bóc lột của người giàu. Chúa dường như cũng chẳng đủ quyền năng để đem đến những kết thúc có hậu như các vở tuồng cải lương. Nó đã bao lần nguyện xin Chúa tha thiết, thế mà… Từ một vị Chúa quyền năng như ông Vua, ông Tiên, ông Bụt, hình ảnh Chúa trở nên mờ nhạt, mơ hồ và ngày càng vụn vỡ trong nó. Giữa lòng nó trổi lên câu hỏi mà nó không thể nào cưỡng lại được: Có Chúa không? Có Chúa thì sao Chúa lại để cho gia đình nó gặp bao nhiêu rủi ro đến độ phải bỏ quê mà đi, đi như những người trốn nợ, bị người ta hắt hủi khinh khi đủ điều. Gia đình nó đã làm gì có lỗi đâu?

Nó cũng bắt đầu hoang mang, không dám chắc rằng ông bà nội vẫn cùng đọc kinh với nó mỗi tối? Ông bà nội chết rồi kia mà! Có chắc là sau khi chết, người ta vẫn còn hiện diện được với con cháu không? Những điều nó học được ở trên trường khác xa những gì mà nó mơ hồ xác tín từ hồi còn nhỏ lắm…

***

– Chào ba con đi học về, chào bác Tư  con đi học về.

Chào khách xong, vứt vội chiếc cặp vào góc, nó chạy xuống bếp lục cơm ăn tranh thủ để còn kịp giờ làm thêm buổi tối. Trên nhà, ba nó và ông Tư, bạn hàng bán hủ tíu gõ, vẫn tiếp tục câu chuyện:

– Nghe nói thằng cháu học khá lắm hả anh Năm?

– Dạ, cũng được anh Tư ạ!

– Thằng nhỏ giỏi thiệt, vừa đi học vừa đi làm… à, mà nó học cùng lớp với mấy nhỏ con bà bác sĩ đầu ngõ hả?

– Dạ…

– Nói hổng phải khen, tui thấy anh nhịn tốt thiệt, cái bà bác sĩ đó cứ cà khịa anh hoài, nào là nghèo mà bày đặt hay nói chữ, nào là bán cháo lòng mà cũng bày đặt cho con đi học… phải mà bả gặp tui…

– Thôi mà anh Tư…

– Bộ chú hổng bực mình hả?

– Dạ… thì cũng bực chứ, nhưng mà nhịn được thì tốt hơn anh ơi!

Ngập ngừng một chút, ba nó tiếp:

– Với lại tui cũng không quen chửi rủa người ta. Mình chỉ có một cái miệng. Cũng cái miệng này tối tối mình đọc kinh cầu nguyện với Chúa, mà cũng cái miệng này mình tru tréo chửi rủa người ta… làm vậy coi sao được!

– Mà nè, chú nói cầu nguyện tui mới nói…

Một chút im lặng dè chừng, rồi ông tư tiếp:

– Người ta nói nhà chú tối nào cũng cầu nguyện, cầu nguyện hoài mà…

– …mà có khá hơn chút nào đâu, phải hông anh Tư?

– Tui chỉ nghe họ độc mồm nói vậy thôi, đừng buồn chú Năm à!

– Không đâu anh Tư, họ không hiểu cũng phải thôi, vì chính tui là người trong cuộc mà cũng đã phải trải qua một thời gian dài nghi nan thất vọng…

Ở nhà dưới, đang nhai dở miếng cơm, nó lắng tai để theo dõi câu chuyện. Nhà trên, giọng ba nó trầm trầm tiếp tục:

– Tui hỏi Chúa hoài, sao để cho nhà con khổ quá… nhưng mà đến Thị Trấn này, tui mới thấy nhiều người còn khổ và đáng thương hơn mình nhiều anh Tư à! Có người nghèo khổ vì thiếu thốn tiền bạc, nhưng đáng thương hơn là những người tiền bạc ê hề trong nhà mà cũng khổ, khổ vì giành giật bon chen, khổ vì con cái hư hỏng…

Ngừng một lúc rồi ba nó tiếp:

– Cũng có những lúc tui ước ao giá mà mình giàu hơn, đỡ khổ hơn, nhưng mà nghĩ lại thấy nghèo mà gia đình đầm ấm lại là một cái phúc…

– Ừ, tui thấy gia đình chú nghèo mà hạnh phúc thiệt đó, hổng phải nhà nào cũng có được đâu.

– Với lại đọc kinh cầu nguyện hơn nửa đời người, tui mới cảm nghiệm được một điều quan trọng: Chúa là Cha anh Tư à! Cha thì biết con mình cần gì, và bao giờ cũng dành cho nó cái tốt nhất. Con tui nó muốn nhiều thứ, nhưng là cha thì tui chỉ nên cho những thứ nó cần. Còn nhiều thứ nó muốn mà không thật sự cần thiết cho nó, thì cho làm gì phải hông anh Tư?

– Chú đang nói về chuyện của Chúa với gia đình chú hả?

– Dạ.. chỉ tiếc là hồi đó tới giờ, tui thường đến với Chúa không phải như một đứa con đến với cha, nhưng mà như một thằng ăn xin. Tui kỳ kèo hoài mà hông được, nên đâm chán là đúng rồi!

– Vậy chứ cầu nguyện mà hổng xin thì chú biểu làm cái gì? – ông Tư ngạc nhiên.

– Thì cũng xin chứ, nhưng mà không phải là xin Chúa làm theo ý mình, mà là xin làm sao cho mình đủ can đảm làm theo ý Chúa.

– Làm theo ý Chúa là sao? – Ông Tư lại thắc mắc.

– Là chấp nhận và sống vui với hiện tại của mình khi mà mình đã cố gắng hết sức, là tin rằng hiện tại này do Chúa muốn, là tốt nhất cho mình, cho gia đình mình.

– Tin rằng hiện tại này là tốt nhất cho mình – ông Tư lẩm bẩm – tối nào chú cũng cầu nguyện như vậy, hèn chi tui thấy chú vẫn bình an và sống vui được.

– Giữ được thói quen như vậy, tui cám ơn ông bà mình nhiều lắm anh Tư à! Hồi nhỏ tui đọc kinh ào ào, đọc riết rồi thuộc, mà có hiểu gì đâu. Giờ mới biết phải từ từ thì những điều mình đọc, mình thuộc mới thấm dần vào máu thịt mình…

Im vắng. Hình như mỗi người đang bận theo đuổi một thế giới riêng của mình. Ông Tư đang trầm ngâm, như đang suy nghĩ lung lắm về những điều mới mẻ vừa được nghe. Còn ba nó, ông đang dõi mắt nhìn lên khung hình ông bà nội trên bàn thờ, như đang dõi về một khung trời linh thánh nào đó…

Nhà dưới, nó chẳng buồn nhai cơm nữa. Cuộc đối thoại của hai người lớn mở ra quá nhiều điều cho nó phải suy nghĩ. Lần đầu tiên trong đời nó thấy ba mình lạ quá. Đằng sau cái vẻ bề ngoài trầm lặng và cam chịu, lúc này dường như nơi ông còn có một cái gì đó thẳm sâu, một cái gì đó linh thiêng, một cái gì đó nó không thể gọi tên được. Phải chăng cái chiều sâu linh thánh ấy vốn là một phần tiềm hữu trong mỗi con người, vốn trường tồn bất biến, và vốn thường bị người ta dẹp để vào một góc khuất?

Nắng chiều sắp tắt. Gió loạc xoạc thổi vào ngôi nhà tranh lặng lẽ. Cứ mỗi lần đón gió chiều, nó lại thấy nhớ quê da diết. Nó nhớ những ngày cả đại gia đình quây quần trong giờ kinh tối. Đó là những ngày êm đềm và đầm ấm nhất trong hoài niệm tuổi thơ của nó. Bất chợt nó nghe như trong gió có mùi hương trầu thoang thoảng, nhè nhẹ, dặt dìu, mà dai dẳng, mà như gần gũi lẩn khuất đâu đây…

Thủ Đức 16.05.2008
Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp TpHCM, 2014, tr. 45-55.

Ngày Về

Tôi cho xe chạy chậm lại, quẹo vào con đường trải nhựa mới tinh dẫn đến nhà ngoại. Đột nhiên ba bốn bóng người xuất hiện ngáng trước đầu xe tôi. Một bàn tay tóm lấy cổ áo, như muốn nhấc bổng tôi ra khỏi chiếc xe. Một gã thanh niên gằn giọng:

–  Mày ở đâu tới đây, hả?

Ánh đèn bin chói lòa chiếu thẳng vào mặt tôi. Một giọng khác hằn học:

–  Cho nó một trận để đừng bao giờ nó dám mò vào đây nữa.

Tôi chưa biết phải phân bua thế nào thì giọng lúc đầu lại cất lên:

–  Khoan đã, ai như là anh Nhân… anh Nhân phải không?

–  Ừ tôi là Nhân..

–  Anh Nhân, em nè, Hải nè, Hải ông địa nè!

Trong ký ức tôi chợt hiện lên cái tên Hải. Phải rồi, Hải ông địa.

–  Hải ông địa… sao lại thế này hả em?

***

Tôi trở về thăm quê sau gần mười năm gia đình mình chuyển đi làm ăn xa. Mười năm trên đất lạ quê người là cuộc hành trình dài cả gia đình tôi đi tìm con đường sống. Mười năm trong lòng tôi luôn da diết nỗi niềm hoài hương. Mười năm hì hục với việc học hành và xây dựng sự nghiệp cho riêng mình. Thật không ngờ, ngày trở về tôi phải đối diện với quá nhiều đổi thay. Tôi đã làm người lữ khách trên xứ lạ quê người, nuôi sống tâm hồn mình bằng thao thức hồi hương. Thế mà khi được trở về, đặt chân trên mảnh đất quê hương, tôi lại thấy mình vẫn chẳng khác một lữ khách. Lữ khách ở ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Ngày đó quê tôi còn là một ngôi làng nghèo nhỏ bé nằm dưới chân núi Touka thâm nghiêm hùng vĩ. Từ nhà tôi, phải băng qua một cánh đồng thật xa và dài thì mới có thể đến chân núi. Thế mà dáng núi vẫn nổi lên sừng sững như ở ngay sau lưng nhà. Mỗi sáng sớm, mặt trời từ từ nhô lên trên đỉnh núi. Những áng mây hồng lờ lững trôi trên cánh đồng. Ánh sáng đầu ngày dần trở nên rực rỡ trong suốt, làm nổi bật cả rặng núi to cao ngất. Mỗi chiều, ánh sáng dát vàng trên cánh đồng lộng gió. Rồi ánh sáng càng lúc càng nhạt dần, bỏ lại ngọn núi từ từ lui vào cái vè thâm u lờ mờ đầy huyền bí.

Hồi nhỏ tôi thích ngắm những cánh chim chiều bay về núi, thích hình ảnh những bác nông phu vác cuốc chậm rãi đi về làng, thích những làn khói chiều mỏng manh bay lờ mờ trong ánh hoàng hôn. Tôi mơ ngày chóng qua, thời gian chóng đến, để tôi cũng trở thành một bác nông phu thứ thiệt. Tôi mong được hít thở hương đồng gió nội cho căng đầy lồng ngực, rồi phì phà thở ra những lọn khói thuốc lãng đãng bay tít lên cao rồi tan loãng giữa trời quê…

Trên cánh đồng sau nhà tôi nổi lên nhiều gò mối xanh um rậm rịt dây leo. Biết bọn trẻ chúng tôi hay trốn ngủ trưa ra đó chơi, người lớn thường kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện rùng rợn về con ma núi. Nào là nó hay xuất hiện vào giữa trưa tròng bóng, hay hớp hồn người ta bằng tiếng hú u u như tiếng gió. Nào là nó hay dẫn người ta đi lòng vòng cho chóng mặt rồi đem dấu vào những gò mối rậm rịt… Bất chấp lời cảnh báo của người lớn, những gò mối mát rượi vào buổi trưa vẫn luôn hấp dẫn trí tò mò của bọn nhóc chúng tôi. Trong khi mấy đứa nhóc thích chạy nhảy la hét ầm ĩ trên cánh đồng, tôi lại thích ngồi một mình ngắm cánh đồng giữa trời trưa và hít thật sâu mùi thơm của đồng lúa. Tôi thích lặng lẽ để nghe tiếng cuốc đồng kêu buồn thê thảm. Những trưa hè, tôi lại mê tiếng tu hú gọi mùa trong nắng vàng của cánh đồng lúa chín… Những âm vọng từ cánh đồng vừa vang vang kỳ bí vừa gần gũi đến lạ lùng.

Dù không phải là người hiếu động, tôi vẫn là thủ lãnh của bọn nhóc trong xóm. Ban ngày chúng mặc sức chạy nhảy khắp mọi nơi trên cánh đồng, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Buổi tối, chúng tôi thường tụ tập trước khoảng sân banh của làng. Sau khi la hét thỏa thuê và chơi đủ thứ trò chơi dân dã, đứa nào cũng háo hức chờ nghe tôi kể chuyện. Tôi hấp dẫn bọn nhóc nhờ những câu chuyện cổ tích tôi nghe được từ bà nội, từ ba má tôi, và cả những câu chuyện mà tôi tìm đọc được trong chồng sách cũ của ông nội. Mỗi câu chuyện bao giờ cũng được tôi kết lại bằng một bài học làm người, có khi là những điều tôi nghe được từ người lớn, có khi là những điều do tôi tưởng nghĩ ra.

Lớn lên một chút, chúng tôi có nhiều cơ hội để khám phá núi rừng. Thì ra để đi từ cánh đồng sau nhà tôi đến ngọn núi Touka còn phải băng qua một cánh rừng nhỏ. Ven khu rừng, người ta phát hoang để trồng những vườn rau xanh tươi bạt ngàn. Mỗi vườn rau được bao quanh bởi dòng suối quanh co và những hàng tre gai xanh trĩu bóng. Tôi thích một mình lang thang trong cánh rừng nhỏ đầy bí ẩn. Dù không có cảm giác được an toàn giữa bốn bề cây cối, tôi vẫn không thể cưỡng lại được ham muốn khám phá bí ẩn đằng sau những bụi rậm, những hốc cây. Tôi ngỡ ngàng và ngưỡng mộ sức sống âm thầm mà mãnh liệt của rừng xanh. Tôi yêu cái âm điệu rì rào của gió rừng, yêu cái âm thanh lạo xạo của lá rừng rộn đều dưới mỗi bước chân qua. Càng đi vào sâu, cánh rừng càng lên cao, như để vươn mình gặp gỡ với ngọn núi. Tôi thích một mình len lỏi vào giữa những bụi cây hoang dại, để mỗi lúc một lên cao hơn, để được chiêm ngưỡng trước mắt mình cả không gian bao la thấp thoáng, để thấy cả cánh đồng trải dài dưới chân, để thấy cả cuộc sống như bé nhỏ bất động…

Dần dần, tôi trở thành vừa là một người bạn chí thân, vừa là một chủ nhân ông của cánh rừng nhỏ. Mỗi lần có cơ hội dẫn đám nhóc đi dạo chơi trong rừng, tôi tự hào giới thiệu với chúng nào là những con suối nhỏ nước trong veo, nào là những hốc rừng bí ẩn có thể treo võng nằm cả ngày mà không bị nắng, nào là những cây cà chí đã đến mùa trái chín đỏ có thể ăn được… Có lần chúng tôi rủ nhau đi xuyên qua cả cánh rừng, đến tận chân ngọn núi. Đứa nào cũng háo hức ngửa cổ để chiêm ngưỡng ‘tận mắt’ ngọn núi cao vút. Nhưng không đứa nào dám nghĩ tới chuyện leo lên núi. Chúng tôi sợ như sợ phải phạm vào điều gì đó vừa vĩ đại vừa thánh thiêng…

***

Nhà thằng Hải ở cạnh nhà tôi. Hồi nhỏ, có một lần nó bị đau quai bị, mặt sưng lên như ông địa. Nó chết danh ‘Hải ông địa’ từ đó. Thằng Hải sống với mẹ, từ nhỏ đã không biết mặt bố. Mẹ thằng Hải nói rằng bố nó đi làm ăn xa. Chẳng ai biết bố nó làm ăn xa là ở đâu. Mẹ nó là bạn thân của mẹ tôi. Mỗi lần tôi hỏi mẹ về bố thằng Hải, mẹ lại gắt: ‘chuyện của người lớn, con nít hỏi làm gì?’.

Không có bố cũng không có anh chị em, từ nhỏ thằng Hải đã quấn quýt lấy tôi như một người anh của nó. Có chuyện gì nó cũng một tiếng anh Nhân ơi, hai tiếng anh Nhân à. Gần gũi với nó nhiều, nên tôi cũng cưng nó nhất. Những tối mẹ nó bận đi công việc, nó qua nhà nằm nghe tôi kể chuyện. Rồi hai anh em ôm nhau lăn ra ngủ khì cho tới sáng. Tôi thường bảo vệ nó và sẵn sàng xách lỗ tai đứa nào dám gọi nó là thằng không cha.

Ngày gia đình tôi dọn nhà ra đi, thằng Hải ôm lấy tôi mà khóc. Lòng tôi cũng buồn vô hạn khi phải xa lìa mảnh đất thân yêu đã nuôi dưỡng tuổi thơ mình. Tôi không biết mấy đứa nhóc trong xóm sẽ lớn lên, sẽ được học hành như thế nào, nhưng chắc một điều là tụi nó sẽ có cơ hội để làm một bác nông phu trên cánh đồng quê. Còn tôi, ước mơ từ thuở nhỏ dường như đã vuột khỏi tầm tay của tôi rồi.

***

Có một dạo, người ta phát hiện ra tiềm năng làm du lịch của ngọn núi Touka. Nhiều người trên thành phố đổ xô xuống mua đất trong những ngôi làng dưới chân núi. Nhiều người không cưỡng lại được cái giá cao ngất ngưỡng đã lần lượt bán đi gần hết thổ cư nhà mình. Nhiều nhà chỉ còn giữ lại đủ đất cho một ngôi nhà xây mọc lên. Những con đường trải nhựa thẳng tắp chạy qua làng, nối quốc lộ vào đến chân núi. Hàng quán mọc lên, điện đường sáng choang. Đến lúc ấy dân làng mới giật mình phát hiện mình trở thành những người xa lạ ngay chính trên xứ sở của mình. Làng như cô gái đỏng đảnh bỗng vụt lớn thành nàng thiếu nữ điệu đàng. Làng nhanh chóng vứt đi những dấu tích của ngày thơ. Nhanh đến độ người ta không còn nhận ra nữa. Nhanh đến độ mỗi sáng giật mình thức dậy người ta không còn biết phải thay đổi thói quen sống của mình như thế nào, và mỗi tối khi đèn đường sáng lên người ta cứ tưởng mình đang còn ở trong một cuộc hành trình xa lắm, chưa được về nhà.

Rất sớm trong những ngày đổi thay ấy, mẹ thằng Hải tìm được một người đàn ông cho nó gọi là bố, dù đó không phải là người sinh ra nó. Người đàn ông xa lạ bỗng dưng dọn về ngôi nhà của hai mẹ con đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời và tương lai của nó. Một năm sau ngày thằng Hải có bố, giấy tờ đất đai đều được chuyển sang tên ông với tư cách là chủ hộ. Một tháng sau khi chuyển chủ, mẹ con nó phát hiện ra mảnh đất của gia đình đã bị bán cho người khác. Một ngày sau đó, ông bố hờ của thằng Hải biến mất khỏi làng, nhanh chóng và bí ẩn cũng như lúc ông đến.

Hải và một nhóm nhóc nhóc trong xóm trở thành ‘bảo kê’ cho mấy quán cà phê mới mọc lên. Thì người ta cũng phải kiếm chuyện gì đó cho đám choai choai tụi nó làm chứ. Có tụi nó là dân bản địa làm bảo kê, mấy cái quán cà phê vừa được an ninh, vừa thoát khỏi cái nạn phiền nhiễu bị ném đá mỗi tối, mà không cần bảo thì ai cũng biết tụi nó chính là tác giả của mấy trò phá phách con nít ấy. Người ta đâu có biết tụi nó vừa làm bảo kê, vừa gây sự với khách. Làng nó trở thành điểm thu hút khách từ nhiều nơi khác đến, để bao cái vẻ đẹp đẽ hiền hòa tiềm ẩn bỗng trở thành điểm chú ý của những cặp mắt tò mò xoi mói trơ trẽn. Người ta ùn ùn trèo lên ngọn núi Touka, trầm trồ, bàn tán, khen chê. Người ta đến rồi đi, thỏa mãn óc tò mò, rồi rũ xoành xoạch bụi bẩn để tiếp tục tìm đến một nơi nào khác hấp dẫn hơn. Người ta săm soi, tính toán, chạy trước đón đầu để xem có còn chút tiềm năng nào của vùng đất này chưa được khai thác, chưa được sinh lợi.

***

Nếu có điểm nào để tôi và thằng Hải có thể nói chuyện với nhau trong ngày gặp lại, đó là những kỷ niệm của tuổi thơ. Chìm vào thế giới của hoài niệm, hiện lên trước mắt tôi là một thằng Hải ông địa dễ thương, khác hoàn toàn với cái vẻ bề ngoài lầm lì bặm trợn lúc nãy. Tôi miên man với những câu chuyện vừa thực vừa mơ lục được từ trong kho ký ức của mình, từ chuyện người, chuyện làng, chuyện rừng núi, chuyện những mơ ước của hai anh em thời còn là trẻ con… Rồi bằng cái giọng bùi ngùi, thằng Hải tiếp tục dòng ký ức êm đềm ấy với những đổi thay biến động. Nó kết thúc: Hình như cuộc đời không thể nào có kết cục đẹp như trong những câu chuyện cổ tích anh Nhân ạ. Khi ông bà ngoại không còn giận mẹ em nữa thì mẹ đã mất rồi. Khi em biết yêu quý và kính trọng mẹ mình thì mẹ đã không còn nữa… Nhìn lại, hình như em đã sống uổng phí những ngày có mẹ.

Tôi trở về, để chứng kiến một khoảng trời mơ đang từ từ vụn vỡ giữa lòng mình. Nhưng hình như sự xuất hiện của tôi lại vô tình làm sống dậy một khoảng trời mơ tưởng đã bị vùi chôn và lãng quên trong lòng thằng Hải.

Tôi lại đi, nó vẫn là người ở lại. Hình như nó được sinh ra để gắn chặt đời mình với mảnh đất này, bất chấp những thăng trầm đổi thay, bất chấp bao phong ba nghiêng ngả. Tôi mong một ngày nó thực sự vươn vai lớn dậy, như cây còng còn sót lại ở đầu làng, rễ vẫn bám sâu vào đất mẹ, hiên ngang ngạo nghễ.

Thủ Đức 11.2007

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp Tp HCM, 2014, tr. 56-66.

%d bloggers like this: