Huệ Trong Đêm

“Life is a fairy tale.
But to see it, you must open your eyes!”
(Olinna Port)

 

Cánh cửa xịch mở, cô gái ùa vào như cơn lốc. Mùi nước hoa. Mùi son phấn. Và cả thân hình cô đổ sầm vào người chàng trai. Căn phòng nhỏ trở nên ngột ngạt với tiếng thở dập dồn hốt hoảng…

Sau một lúc định thần, chàng trai giật mình:

–  Cô…

–  Suỵt… – cô gái thì thầm – đừng có lên tiếng!

Ngoài hiên có tiếng chân người rượt đuổi. Có tiếng làu bàu chửi đổng của kẻ vừa săn hụt con mồi…

***

Dưới ánh đèn ngủ lờ mờ anh nhận ra người thiếu nữ. Là cô. Họ là người quen của nhau, mối quen biết hời hợt của một chàng sinh viên và một cô gái bán hoa ở cùng khu nhà trọ.

–  Cô… sao lại thế này? – Anh cất tiếng phá tan cái ngột ngạt im lặng, cố không đặt tầm mắt vào người cô gái. Mái tóc lòa xòa xổ tung che mất nửa khuôn mặt cô. Chiếc áo ngủ khoác hờ trên người cô mỏng manh như cánh bướm.

–  Họ lại bắt tôi tiếp khách… Họ không buông tha cho tôi, không muốn cho tôi làm lại cuộc đời…

Đêm. Cả khu phố ngập chìm trong bóng tối. Con hẻm sâu hun hút, lắc léo và tối om như lòng người. Đâu đó cuối con phố, vẫn còn chập chờn bóng dáng những cánh bướm đêm…

***

Từ ngày về ở trọ khu này, anh như lạc vào một góc khác của cuộc đời. Những cặp trai gái dìu nhau ngả ngớn như thể trong thế giới này không còn ai khác ngoài họ. Môi đỏ. Mắt xanh. Vai trần. Vải mỏng…  Những cảnh đời ấy khuấy động một góc khuất bên trong tâm hồn anh. Giữa lòng anh nổi lên nhiều giông bão. Nhiều hình ảnh hở hang khiêu khích đọng lại, và dần định hình trong anh một thế giới ma mị tội lỗi… Những ám ảnh về sự buông thả sa đọa làm anh ớn nhợn, nhưng chúng cũng khơi dậy nơi anh nhiều rạo rực khó tả. Có điều gì đó trong anh như con sóng triều dâng ăm ắp, cứ chực bùng phát vỡ tràn.

Những lúc ấy, anh thường ngước nhìn lên tượng thánh Giuse trong phòng mình. Càng lúc anh càng cảm thấy lạ lùng và kính nể khi nghĩ đến việc thánh nhân đã có thể sống khiết tịnh suốt đời bên người phụ nữ mình yêu. Liệu giữa thế giới ngày nay, còn có chỗ nào cho những Giuse như thế nữa chăng?…

***

Bây giờ, đối diện với anh là một cô gái bằng xương bằng thịt, giữa đêm khuya, trong căn phòng của chính anh. Thế giới ma mị tội lỗi lại chập chờn nhảy múa trong đầu anh…

Nhắm mắt. Hít một hơi thở thật sâu. Anh bỗng cảm nhận có điều gì đó lạ lắm. Là mùi hương hoa Huệ. Không sực nức nồng nặc như mùi nước hoa, không mời mọc quyến rũ như mùi son phấn, hương hoa nhè nhẹ thoang thoảng lại cho anh cảm giác thanh thoát đến lạ kỳ…

Không, mình không thể! Cuộc đời đã đẩy cô gái đến cùng đường… Vô tình cô đã bám vào mình như một chiếc phao, mình không thể đan tâm dìm cô chìm sâu thêm nữa. Cuộc đời đã đập vỡ tan tành niềm tin mỏng manh trong cô, mình không thể tiếp thêm vào những đổ vỡ ấy nữa…

–  Thôi, cô nằm xuống đó ngủ đi…

–  Anh… còn anh…

–  Tôi nằm đây ngủ và giữ cửa cho cô!

Cô gái đảo mắt một vòng quanh căn phòng. Đôi mắt cô chợt sáng lên khi dừng lại trước bàn thờ. Cô nhẹ nhàng buông người, nhắm mắt…

Đêm. Tiếng trằn trọc trở mình. Tiếng thở đều đặn. Căn phòng thoảng mùi son phấn, mùi nước hoa, quyện xen với hương hoa Huệ thơm ngát…

***

Chàng trai giật mình mở mắt. Chỗ cô gái nằm hôm qua giờ là một manh chiếu trống. Dấu vết còn lại chỉ là một mẩu giấy viết vội: “Cám ơn anh đã cho tôi một đêm yên lành. Và cám ơn Thánh Giuse nữa anh ạ! Tôi cũng là người có đạo. Tôi sẽ về quê mình để được sống lại như một người có đạo”…

Cô gái của ngày hôm qua vụt đến như những mơ tưởng chắp nối rời rạc trong anh. Với sự ra đi của cô, dường như một góc nào đó trong tâm hồn anh đã được thánh hóa.

Hôm ấy là ngày lễ Kính Thánh Giuse. Trên chiếc bàn thờ nho nhỏ, đóa Huệ lành tỏa hương thơm ngát.

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn “Hoa Phượng Về Trời”
Nxb Tổng Hợp 2014.

Advertisement

Hoa Dăm Bào

“Chị về đi
và từ nay đừng phạm tội nữa!”
(Ga 8,11)

Giêrusalem, ngày… tháng…năm…

Cha yêu,

Sáng nay con nhớ đến Cha, nhớ đến bài học mà Cha đã dạy con từ những chiêm nghiệm sâu xa của một người thợ mộc.

Người ta lôi đến và quẳng trước mặt con một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Người ta muốn xử chị như xử lý một phế phẩm. Vì sự trong sạch của cả cộng đồng, một phế phẩm như thế cần phải bị tiệt trừ. Và người ta mời con ra tay…

Lúc ấy, con chợt nhớ đến kỷ niệm về khúc gỗ được cha lấy lên từ vũng bùn. Đó là một khúc gỗ vừa sần sùi xấu xí vừa cáu bẩn tanh hôi. Thế mà khi con bịt mũi nhăn nhó, cha chỉ nhìn con cười ý nhị. Cha đem khúc gỗ vào nhà, rồi cần mẫn lau khô những lớp bùn bẩn và rong rêu bám quanh. Cha nâng niu khúc gỗ như nâng niu một bảo bối.

Đặt khúc gỗ trên chiếc ghế bào, Cha thực hiện những thao tác của một người thợ mộc. Chiếc bào con con lướt nhẹ trên mặt gỗ. Sau những mảnh dằm rời rạc và xám xỉn ban đầu, những cuộn hoa mỏng mảnh trắng hồng bắt đầu xuất hiện và uốn lượn nhảy múa dưới đôi bàn tay Cha. Con nhớ mãi đôi bàn tay ấy, đôi bàn tay mềm mại uyển chuyển mà không kém phần kiên quyết rõ ràng. Trước ánh mắt ngỡ ngàng của con, lớp vỏ sần sùi thô kệch cứ mất dần, thay vào đó là lớp thịt trắng mịn bên trong của khúc gỗ.

Với đôi tay của một người thợ, Cha gọt sạch tất cả những gì là cặn bẩn rác rưởi, để trả lại cái vẻ đẹp tươi tắn nguyên sơ. Là một người thợ mộc, Cha đã không nhìn khúc gỗ bằng đôi mắt, nhưng bằng cả con tim. Cha dạy con rằng, cũng thế, chỉ bằng con tim người ta mới có thể nhìn ra được giá trị thực của một con người. Mỗi con người là một kho tàng vô giá; nhưng giữa cuộc đời, kho tàng ấy bị che phủ bởi nhiều lớp bụi bẩn rong rêu. Cha dạy rằng không có con người nào vô dụng xấu xa, chỉ có những con người không biết nhìn ra giá trị sâu xa của những con người khác.

***

Cha ạ,

Bài học ấy hôm nay đã trở nên một Lời Tin Mừng sống động. Khi chị phụ nữ ngước nhìn con bằng ánh mắt run rẩy, con đã nghe con tim mình rung lên. Ánh mắt thống hối của chị mở toang khung cửa để suối nguồn ơn cứu độ chảy ùa vào. Bất chấp dáng vẻ bên ngoài rách rưới tả tơi, bất chấp tất cả những lời miệt thị mà người ta gán cho chị, con nhìn thấy vẻ đẹp tươi tắn nguyên sơ trong con người chị đang dần dần hiển lộ. Con nhìn chị bằng ánh mắt của Cha…

Và bất chợt, những đóa hoa dăm bào của năm nào như đang nhảy múa trước mắt con bằng những vũ khúc tuyệt diệu nghê thường.

Khi thốt lên lời yêu thương –“Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” – con như thấy cả cõi thiên quốc đang cùng con hát mừng trong niềm vui đón nhận một linh hồn được cứu rỗi.

Cha ạ,

Từ cuộc sống của Cha, từ cả sự im lặng khiêm nhu của Cha, con đã học được biết bao bài học quý giá về con người, về cuộc đời, về tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những gì Cha trao cho con, con đã trao lại cho đời như Lời Tin Mừng cứu độ. Trong công trình cứu chuộc nhân loại từ khởi đầu cho đến viên mãn, Cha luôn mãi là Cha của con.

Con của Cha

Giêsu.

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn “Hoa Phượng Về Trời”
NXB Tổng Hợp 2014.

Chảy Đi Sông Ơi…

Cảm giác như có ai đó đang bước sau mình, hắn ngưng bặt tiếng hát.

– Xin lỗi, có phải mình làm bạn giật mình? – từ phía sau, cô bé tóc vàng lên tiếng.

+ À… không…

– Sao bạn không hát tiếp đi, đang hay mà !

+ Bạn hiểu mình hát gì sao?

– À, không, mình không hiểu ngôn ngữ bạn hát, nhưng mình cảm được nhiều tâm tình trong bài hát của bạn.

+ Bạn giỏi ghê ! Ah, có phải bạn là cô bé chiều chiều hay ngồi trên thảm cỏ bên bờ sông không?

– Phải và không phải. Mình là người chiều chiều hay ngồi trên thảm cỏ bên bờ sông, nhưng thật tiếc mình không còn là cô bé! Còn bạn, bạn là cậu bé chiều chiều hay thơ thẩn trên con đường cong cong này, và lâu lâu lại hát một mình, phải không?

+ Ừa, bạn đúng cả hai. Nhưng mà để mình đoán xem nhé, chắc là bạn nhỏ tuổi hơn mình đấy!

– Ừa, nhưng mà mình già hơn bạn…

+ Tại mình cười nhiều. Còn bạn, mỗi khi gặp bạn ngoài này mình thường thấy mặt bạn buồn rũ rượi. Nhăn nhăn cái mặt hoài nên mau già là đúng rồi…

Đó không phải là lần đầu tiên họ gặp nhau, nhưng là lần đầu tiên họ nói chuyện với nhau. Một cánh cửa nho nhỏ vừa mở ra.

***

Lần thứ hai.

– Bạn thường ra sông mỗi khi buồn hay vui?

+ Mình chỉ ra sông mỗi khi thích. Chẳng để ý là buồn hay vui nữa. Còn bạn?

– Mình không biết, tâm hồn mình dường như lúc nào cũng chỉ có cùng một tâm trạng, chẳng buồn cũng chẳng vui, chẳng biết mình muốn gì nữa…

+ Bạn yêu dòng sông này lắm phải không?

– Không, hoàn toàn ngược lại!

– Vậy thì lạ thật đấy

– Mình ghét sông lắm. Sông có gì hay đâu mà thích chứ !

+ Vậy sao bạn hay ra ngồi đây?

– Thì nói rồi đó, mình không biết! Bạn nghĩ xem, trên đời này có điều gì bội bạc và xấu xa như dòng sông không?

+ Sao lại thế?

– Chẳng bao giờ dòng sông biết đứng lại. Bạn có thể ra ngồi bên dòng sông cả ngày như thể hai người bạn. Thật ra chỉ có bạn đứng lại, dòng sông thì cứ mãi lao mình về phía trước.

+ Đó chẳng phải là ơn gọi của dòng sông sao?

– Dòng sông mà cũng có ơn gọi sao? Bạn lãng mạn quá nhỉ! Còn mình thì khác. Tại sao dòng sông không dám dừng lại bạn biết không? Tại vì dòng sông đã ngầm chứa nơi mình quá nhiều cặn bẩn và rác rến. Chỉ cần dừng lại là bao nhiêu điều xấu xa sẽ trào lên trên bề mặt. Vậy nên nó cứ phải lao mình đi. Ra đi để che dấu. Ra đi để cố công giữ cho mình chút gì đó đẹp đẹp…

+ Bạn có khắt khe quá không?

– Nếu có, bạn không phải là người đầu tiên nói câu đó với mình…

+ Bạn nghĩ xem, rác rến của dòng sông từ đâu mà có… Chẳng phải rác rến là những cái bên ngoài người ta ném vào lòng sông sao? Nói cho cùng, dòng sông đâu có lỗi! Tự đầu nguồn, con sông nào vốn cũng là một dòng nước hiền lành trong suốt mà!

– Nhưng mà dòng sông ôm đồm và đa mang nhiều thứ. Có điều gì thấm nhiễm vào mình được nếu người không quá ôm đồm, phải không?

+ Ừa… nhưng mà bạn không nhận ra rằng ôm đồm gồng gánh lại cũng là một nét đẹp của dòng sông sao. Sông không bao giờ là một dòng chảy vô tình giữa bao la trời đất và tạp nhạp cuộc đời. Sông lặng lẽ nhận lấy nơi mình tất cả những gì người ta vứt bỏ…

Thoáng ngỡ ngàng trong mắt cô bé. Cô nhìn hắn lạ lẫm. Cô biết hắn đến từ một đất nước xa lạ. Và dưới mắt cô, hắn cũng xa lạ như chính nơi xuất thân của hắn. Chiều chiều cô hay gặp hắn thẩn thơ trên cùng một dòng sông, trên cùng một con đường. Những ngày đầu, họ lướt qua nhau như hai người xa lạ giữa bao kẻ xa lạ khác. Nhưng rồi cô nhận ra nơi hắn có nhiều điều khiến mình phải chú ý. Có thể là cái dáng trầm tư lặng lẽ. Có thể là những bước chân lãng đãng vừa như vững chãi vừa như vô định. Có thể là cái thói quen hay hát một mình chẳng giống ai. Và cũng có thể là cái kiểu lý sự không giống ai của hắn…

***

Lần thứ ba.

– Bạn biết tại sao mình hay ngồi bên dòng sông? Soi bóng trước dòng sông, mình gặp lại mình.

+ Với tất cả những điều xấu xa mà bạn đã gán cho dòng sông sao?

– Trong lòng ai mà không có những điều xấu xa hả bạn? Có những điều xấu xa từ trong quá khứ cứ bám theo mình dai dẳng. Nhiều lúc mình muốn được tắm gội. Dòng sông gần thế, chỉ cần một bước chân. Ùm. Thế là xong mọi chuyện…

+ Nhưng sao bạn không làm điều đó?

– Mình nghĩ dòng sông không xứng đáng. Mình không thể dìm chết đời mình trong cái tạp nhạp bẩn thỉu của dòng sông được.

+ Bạn muốn giữ cho mình cái thanh cao đáng quý ghê. Nhưng mình hỏi thật nhé: bạn có nghĩ rằng dòng sông, vốn đã xấu xa và bẩn thỉu dưới mắt bạn, sẽ còn trở nên bẩn thỉu và thối tha hơn với cái xác chết trương sình của bạn không?

– Bạn… sao bạn lại nói thế với mình chứ?

+ Bạn có nghĩ rằng dòng sông có trở nên bẩn thỉu là cũng vì những cách giải quyết giống như bạn đang muốn thực hiện không? Nhiều người muốn làm như bạn lắm. Sống trong cuộc đời, người ta không muốn mang theo bên mình nhiều điều nặng nề, khó khăn, phức tạp, trách nhiệm, lầm lỗi… Họ hay tìm cách quẳng đại cho một ai đó, một chỗ nào đó mà họ gặp được trên đường đời. Nhiều người hay kết luận rằng cuộc sống tạp nhạp. Ít người nào chịu nhận ra trong cái tạp nhạp ấy có phần tham dự của chính mình…

– Mình không biết mình muốn gì, và cũng không biết mình làm đúng hay sai nữa… Nhưng mọi chuyện cứ càng ngày càng tệ, và mình thấy cuộc sống mình trống rỗng vô nghĩa quá.

– Cuộc sống vô nghĩa vì nó vốn trống rỗng hay vì bạn không cảm được ý nghĩa của nó?

– Bạn không tính dạy mình về ý nghĩa cuộc đời đấy chứ? Với bạn thì sao?

+ Mình thì chưa bao giờ phải vất vả đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Mọi việc mình làm đều có một chút ý nghĩa nho nhỏ nào đó, cho mình chút niềm vui nào đó. Cuộc đời là một chuyến hành trình dài, nhưng mình tin rằng chuyến hành trình nào cũng được làm nên từ những bước đi nho nhỏ. Vui với những bước nho nhỏ trong đời, mình có thể vui với cuộc đời.

– Lạ thật, bạn mơ mộng như một thi sĩ, nhưng lại triết lý như một ông già…

+ Có lẽ vậy, mỗi người vốn bẩm sinh đã là một triết gia mà… À, mình nghe nói rằng cánh cửa cuộc đời chỉ mở ra cho những người nào chịu suy nghiệm nghiêm túc về nó thôi, cũng có lý phải không?

– Nhưng mà những suy nghiệm về cuộc đời làm mình mệt mỏi quá!

– Có thật vậy không? Suy nghiệm về cuộc đời làm bạn mệt mỏi, hay vì cuộc đời làm bạn quá mệt mỏi đến độ bạn không dám suy nghiệm về nó nữa?…

– Ừa, có lẽ ý của bạn đúng hơn.

+ Mình yêu mến những người thích suy tư về cuộc sống, giống như bạn. Nhưng đáng tiếc là có rất nhiều người không tìm được lối ra. Không phải vì họ kém cỏi đâu, nhưng dường như vì họ thường suy nghĩ về cuộc đời với một thái độ hằn học nào đó. Làm sao người ta có thể mở ra được cánh cửa sống với thái độ như thế, phải không bạn?…

***

Lần cuối.

– Bạn có biết tại sao dòng sông cứ phải chảy không?

+ Chẳng phải lần trước bạn đã có câu trả lời cho câu hỏi này rồi sao?

– Đó là nói theo cái kiểu của mình, còn bạn?

+ Mình tin rằng dòng sông nào cũng chảy, vì ơn gọi của dòng sông là về nguồn. Về nguồn, dòng sông sẽ được gột rửa khỏi những cặn bẩn rác rưởi đã đeo bám vào mình. Về nguồn, dòng sông sẽ được tan loãng hòa quyện giữa lòng đại dương. Về nguồn, sông sẽ căng mình ra trải rộng trong cái bao la của biển lớn. Về nguồn, sông lại sẽ trao ban chính mình bằng những luồng hơi nước làm dịu mát mặt địa cầu…

– Bạn lại đang triết lý về đời người hay đời sông đây?

+ Bạn nghĩ sao?

– … À, không, mình hiểu mà! Này, có lẽ từ ngày mai, mình sẽ không còn gặp bạn nữa rồi!

+ Bạn đã tìm nghe được tiếng gọi lên đường từ giữa lòng mình sao?

– Ừa, thì cũng phải lên đường chứ, đâu thể tù đọng mãi. Mà nè, mai không gặp mình nữa, bạn vui hay buồn? Ê, đừng có nói theo cái kiểu là không vui cũng không buồn à!

+ Vậy thì mình vừa vui vừa buồn. Vui vì bạn đã thôi lý sự loanh quanh để bước vào một cuộc sống mới. Buồn vì mất một người lý sự với mình…

Cô bé cười. Lần đầu tiên cô bé cười bên sông.

Hoàng hôn vừa ập xuống. Cơn gió chiều đột ngột làm xõa tung mái tóc vàng óng. Vài tia nắng sót lại xuyên qua những sợi tóc bay bay…

Nghiêng nghiêng mái đầu sang một bên, cô bé cười

Nheo nheo đôi mắt tinh nghịch, cô bé cười

Tiếng cười trong trẻo vang động trên mặt sông

Và dòng sông vẫn chảy…

Cao Gia An, S.J.
Roma – 28.03.2009

Giữa Mùa Sen

 

Nắm chặt trong tay xâu chuỗi Mân Côi, Sen cứ mải miết dõi về hướng sông lớn. Đó là con sông chính nối liền giáo họ của Sen với nhà thờ xứ và với thế giới bên ngoài. Trên dòng sông ấy, một người đã đến và đã đi.

Sen lặng người nhìn chiếc đò dần dần trôi xa. Màn sương chiều mỏng mảnh giăng giăng trên mặt sông. Nước triều đang mùa dâng cao, con nước phủ ngập cả đôi bờ lau trắng. Điều gì đó trong lòng Sen cũng đang dâng ngập như con nước muốn tràn bờ. Chút gì lãng đãng buâng khuâng…

Chiếc đò xa khuất tự bao giờ. Mặt nước xáo động lại trở về với trạng thái bình lặng. Bầu trời chiều ửng đỏ in bóng trên mặt sông. Sen nhìn thấy khuôn mặt mình in lờ mờ trên mặt nước… Đôi khi, để hiểu được con người thật của mình, người ta cần một tấm gương. Gương càng trong càng dễ giúp người ta nhìn thấy mình.

1.

Đi chợ về đến ngõ, Sen thoáng thấy giữa khoảng sân nhà mình có bóng một người đang chờ đợi. Nghĩ là Hưng lại đến tìm mình, Sen đi vòng qua hàng rào để vào nhà theo ngõ sau. Đã mấy tuần nay nàng tránh mặt Hưng.

Sen quen Hưng qua những lần chat trên mạng. Hưng là đứa con trai của thành phố, đẹp trai, lịch lãm, có học thức, lại có duyên ăn nói. Thế nên ngay ở lần đầu tiên về ra mắt, Hưng đã rất được lòng bố mẹ Sen. Ở quê, đâu phải ai cũng có cơ hội tìm được một chàng rể học đại học! Chuyện tình của Sen và Hưng được cả gia đình hết lòng ủng hộ. Mọi chuyện thật êm xuôi dễ dàng, cho đến buổi chiều hôm ấy…

Hôm ấy Hưng đến nhà xin phép để đưa Sen lên phố chơi. Sắp vào Mùa Giáng Sinh, đường phố được trang hoàng thật rộn ràng đẹp đẽ. Vai sát vai bên Hưng trên đường phố, Sen cứ như người đang lướt đi trong mơ. Lòng nàng đầy ắp những hình ảnh tốt đẹp về một không gian huy hoàng cho ngày cưới của hai người…

Đi chưa được một vòng thì Hưng muốn đưa nàng về để giới thiệu nơi Hưng đang ở trọ. Căn phòng trọ của Hưng là căn phòng của một công tử nhà giàu. Kế bên giường ngủ là chiếc máy vi tính còn mới tinh. Hưng bảo Sen có thể sử dụng máy trong thời gian chờ đợi Hưng đi ra ngoài có chút việc.

Còn lại một mình, nhìn quanh căn phòng nhỏ, lòng Sen lại dâng đầy ắp những hình ảnh thơ mộng về một mái ấm nhỏ bé của hai người. Nàng mơ về một không gian tràn ngập tiếng cười trẻ thơ, mơ về bữa những cơm gia đình đầm ấm…

Sau một hồi mơ mộng, Sen mới bắt đầu ngó đến chiếc máy vi tính. Chiếc máy đã được mở sẵn từ lúc nào. Chỉ vừa chạm tay vào con chuột, nàng giật mình khi trên màn hình bất ngờ xuất hiện hình ảnh hai người trong trang phục của Eđam Eva đang quằn quại quấn lấy nhau. Tấm hình to đập vào mắt Sen. Bất ngờ thảng thốt, Sen len lén đưa mắt nhìn quanh như sợ bị ai bắt gặp… Rồi theo một thôi thúc kỳ lạ, nàng lại đưa tay vào con chuột. Click. Click. Sau mỗi cú click chuột, một tấm hình khác lại hiện ra. Tất cả trụi trần và nóng bỏng. Sen nghe máu nóng trong người mình như dồn lại. Bàn tay click chuột run run. Không thể cưỡng lại được sự tò mò mãnh liệt trước những điều mới mẻ, Sen lại click, click, click…

Một hơi thở nóng hổi phả vào gáy làm Sen giật mình. Nàng chưa kịp có phản ứng gì thì một đôi bàn tay đã vòng qua siết chặt lấy nàng từ phía sau. Là Hưng. Tai nàng ù lên trước những lời thì thầm. Cả người nàng như thất thần tê dại. Nàng quay mặt lại để tìm khuôn mặt Hưng. Mũi chạm mũi, môi chạm môi…

Rồi bất thần chạm vào đôi mắt Hưng, Sen rùng mình khiếp hãi. Trong đôi mắt lờ đờ là những đường gân máu đỏ ngầu. Đôi mắt ánh lên những tia hoang dại của một con dã thú sắp vồ mồi.

Sen hốt hoảng thét lên, rồi đẩy mạnh Hưng ra. Bị bất ngờ, Hưng ngã nhoài trên nền đất. Sen run rẩy chạy băng ra khỏi phòng. Đường phố đang hồi nhộn nhịp. Vẫn còn đâu đó vài tia nắng chiều sót lại trên nền trời xanh thẳm…

2.

Ngày hôm ấy Sen cho anh chàng chờ hơn một tiếng đồng hồ ở ngoài sân. Tới khi mở cửa, nàng bất ngờ vì gặp phải một khuôn mặt lạ hoắc. Lại là khuôn mặt trắng trẻo của một chàng công tử… nhưng không phải là Hưng. Chàng trai tươi cười:

– Xin lỗi, cho tôi hỏi, đây có phải là nhà của ông Trùm?

– Dạ… phải, anh là ai… muốn tìm bố tôi có chuyện gì?

– Tôi là sinh viên đến đây để thực tập…

– Tôi… xin lỗi… anh đợi có lâu không?

Chàng trai cười thật tươi:

– Không, không lâu… tôi mới xuống xe, rồi lại đi đò đến đây. Nãy giờ có cơ hội thơ thẩn để hít thở không khí trong lành của làng quê, tôi thích lắm…

Bố Sen bảo chàng trai về đây để dạy học cho những đứa trẻ nghèo trong vùng. Sáng sáng, ông lấy xuồng đưa chàng trai đi vào tận những kinh vùng sâu, đến chiều tối mới lại đưa chàng về nhà. Sen ngạc nhiên vì thái độ tôn trọng khác thường mà bố dành cho chàng sinh viên thực tập. Sen cũng thấy lạ vì cung cách đạo mạo trầm lặng của chàng sinh viên. Trông người thì rõ là dân phố, nhưng lại rất háo hức nghe về chuyện của những người nghèo ở thôn quê, chuyện của những trẻ em bị bỏ rơi, chuyện của những con người không được học hành…

Dù sao đi nữa, Sen không có nhiều cơ hội để gặp gỡ chàng trai. Đúng ra, nàng hay tìm cách lánh mặt chàng. Có vẻ lạ lùng, nhưng từ khi lờ mờ hiểu ra điều mà Hưng đã dàn xếp để chào đón mình trong căn phòng trọ buổi chiều hôm ấy, Sen đâm ra giận dỗi và nghi ngờ những người đàn ông mặt mũi trắng trẻo và miệng lưỡi ngon ngọt. Nàng nghi ngờ cả những khi chàng trai chỉ lịch sự mỉm cười thân thiện với mình. Sự có mặt của chàng trai trong nhà khiến nàng nghĩ đến Hưng…

3.

Sáng hôm ấy, bố Sen có việc đột xuất phải đi lên huyện. Trước khi đi, ông bảo Sen giúp ông đưa chàng trai vào vùng sâu. Sáng hôm ấy… mọi thứ cứ như một cuốn phim trôi qua trước mắt Sen. Sen được chứng kiến bao điều mới mẻ và lạ lẫm.

Nơi xuồng họ cập bến là một khoảng đất trống nằm trên bờ kinh. Lớp học là một căn chòi trống được dựng lên bởi những cây cột tràm, được che chắn bởi những tán lá dừa nước. Căn chòi đầy ắp cả người lớn lẫn trẻ con. Chàng trai vừa bước vào chòi thì đám nhóc đã nhao nhao vồ vập: Ông thầy… Ông thầy… Sau một hồi giành nhau cái balô nho nhỏ của chàng, cuối cùng đám nhóc lôi ra một chiếc kèn Harmonica, một quyển Kinh Thánh, mấy cây bút chì và vài cuốn tập…

Buổi học mở đầu bằng tiết mục thổi Harmonica. Chàng trai thổi những bài thánh ca quen thuộc mà giáo họ của Sen hay hát trong những dịp lễ Chúa Nhật. Mọi người thích thú lẩm nhẩm hát theo… Sen ngạc nhiên khi thấy người ta đón chàng trai như đón một người bạn đã thân thiết từ bao giờ. Sen cũng ngạc nhiên khi thấy từ lúc bước vào nơi của những người nghèo chàng trai dường như đã biến thành một con người khác. Ngồi trước những cặp mắt đang chăm chú nhìn mình, chàng trai không còn là con người ngại ngùng trầm lặng. Sen bị thu hút bởi cách chàng trai nói chuyện và cười đùa với mọi người, bởi cách chàng dạy dỗ cho những đứa trẻ đen nhẻm bẩn thỉu, bởi cách chàng chăm chú lắng nghe những câu chuyện kể không đầu không đuôi của mấy bà nhà quê… Sen bị hút bởi tiếng cười trong veo lạ lùng của chàng trai hoà trong tiếng cười thoả thích của những người dân quê chân chất.

Nàng nhận ra một điều đơn giản: chàng trai là người tốt bụng. Nhưng chàng đến đây để làm gì? Chàng tìm gì nơi đây? Chàng tìm gì nơi những con người cơm ăn không đủ no áo mặc không đủ ấm này? Chàng vui gì nơi những con người nghèo khổ thất học này? Tự mình, Sen biết chẳng bao giờ mình có thể trả lời được những thắc mắc ấy…

4.

Trên đường về, chàng trai xin Sen dạy cho mình lái xuồng. Sau một hồi lập bập, cuối cùng chàng trai cũng có thể làm cho chiếc xuồng chạy êm trên mặt nước. Ngồi một mình không biết làm gì, tự dưng Sen thấy mình thừa thãi bối rối. Sau một hồi lặng lẽ, Sen lại thả hồn mình vào những mơ mộng lãng đãng. Chàng trai lại khiến nàng nhớ đến Hưng…

Sen tự hỏi không biết bây giờ Hưng thế nào. Đã hơn hai tuần lễ trôi qua, vậy mà tất cả những hình ảnh của buổi chiều hôm ấy như vẫn còn mới nguyên trong Sen. Chúng như đã trở thành một phần trong tâm trí nàng, trong những lần lãng đãng mơ mộng, và cả trong những giấc mơ. Nàng bỗng nhận ra rằng có những điều chỉ cần được một lần đi vào tâm trí con người, là dấu ấn chúng đọng lại sẽ chẳng bao giờ phai nhoà. Tâm trí nàng như một tờ giấy trắng đã bị nhuốm bẩn bởi những dấu chân đen… Không biết đã bao lần Sen hồi tưởng lại hình ảnh cô bé ngu ngơ với những cái click chuột, hình ảnh từ chiếc máy vi tính, hình ảnh Hưng nằm chỏng chơ ngơ ngác sau khi bị nàng xô ngã… Nghĩ lại những điều ấy, nàng vẫn thấy mình còn nóng bừng cả mặt. Sen thấy ngượng với Hưng và ngượng với chính mình.

Dù sao đi nữa, Sen vẫn thấy mình thật may mắn khi tránh được những gì có thể xảy ra sau đó. Nàng quả thật sợ mất Hưng, nhưng nàng còn sợ hơn nữa nếu mình đánh mất điều gì đó quý giá nhất của một con người. Trong con người, có những điều thật sự quý giá mà mỏng mảnh biết bao. Chỉ cần một cái buông tay vô tâm, người ta sẽ dễ dàng làm vỡ nát nhiều thứ.

Nếu buổi chiều hôm ấy nàng buông thõng mình trong vòng tay của Hưng, mọi chuyện sẽ ra sao nhỉ?… Nàng nhớ đến cô Tư, người lặng lẽ sống bên mép làng, suốt đời mang theo nơi mình tội danh không chồng mà có chửa. Nàng mường tượng đến những lời xầm xì của các bà mẹ bên hông nhà thờ sau những giờ kinh chiều. Nàng tưởng tượng đến ánh mắt nguýt dài đầy dè bĩu của bà con trong xứ đạo. Nàng nghĩ đến ba mình, nghĩ đến danh giá của gia đình ông Trùm… Bao giá trị truyền thống của xứ đạo mà những người trẻ như nàng phải gìn giữ, là những khuôn phép gò ép hay là những giá trị đạo đức giúp người ta sống là người hơn?…

Cũng có lúc nàng đã nghĩ rằng, nếu chuyện có lỡ xảy ra, có thể nàng và Hưng sẽ tìm được một cách giải quyết gọn gàng trên phố, như đôi lần nàng đã nghe ai đó trong nhóm bạn của Hưng nói bóng gió. Mọi chuyện sẽ êm xuôi sau một chuyến đi phố… Nhưng liệu như thế, cuộc đời của nàng sẽ tiếp tục buông xuôi dễ dàng chăng? Liệu lương tâm nàng có im lặng dễ dàng chăng? Liệu nàng có thể tha thứ cho mình chăng?…

5.

Những cái lúc lắc của chiếc xuồng kéo Sen trở về với thực tại. Sen nghĩ về chàng trai đang cùng mình trên chiếc xuồng con giữa khoảng đồng không mênh mông sông nước. Giữa họ đã luôn có một khoảng cách vô hình, khoảng cách tưởng là mỏng manh nhưng dường như bất khả vượt qua. Sen nghĩ về đôi mắt trong veo, nghĩ về giọng cười trong veo của chàng trai. Đối diện với những cái trong veo ấy, tự dưng nàng thấy mình đục và bẩn quá. Nàng không biết chàng trai nghĩ gì khi đối diện với nàng, nhưng chắc hẳn nó không đen tối và tội lỗi như những gì cứ ám ảnh tâm trí nàng trong suốt những ngày qua.

Bỗng dưng Sen nghe tiếng chàng trai kêu lên thích thú: Ô, xem kìa… Hướng về phía chàng trai đang chỉ tay, Sen nhìn thấy cả một cánh đồng sen bát ngát. Thôi chết! Thì ra nãy giờ cứ thả hồn mơ mộng, nàng không nhận ra rằng chàng trai đã lái chiếc xuồng đi lạc đường. Thay vì rẽ theo hướng về nhà, chiếc ghe của họ lại đi thẳng đến đồng sen.

Sen đang vào mùa nở rộ. Cả vùng sen bát ngát trải dài như một tấm thảm hoa khổng lồ lay động trên mặt nước. Chàng trai thích thú cất tiếng cười vang…

Sen nhớ có một lần nàng phụng phịu với bố rằng tại sao ông lại đặt cho nàng cái tên là Sen. Tên gì nghe quê mùa chết đi được! Lần ấy bố lấy xuồng đưa nàng đến cánh đồng này. Bố bảo vì thích những đoá hoa sen, nên ông đã lấy tên ấy mà đặt cho nàng. Những đoá sen tượng trưng cho sự trong trắng. Sen cứ thầm lặng mà sống, nhưng luôn biết cách vươn cao khỏi mặt nước sình lầy. Vươn mình lên cao chính là một thôi thúc tự nhiên âm thầm mà liên lỉ mãnh liệt giữa lòng sen. Rồi ông giải thích: Sen có nghĩa là đẹp. Để minh hoạ cho điều mình nói, ông cất giọng ngâm nga:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn…”

Sen nhớ hồi ấy bố còn nói rằng những đoá sen cũng là biểu tượng của sự sống. Trên vùng sóng nước long đong chập chờn, những bụi sen vẫn cứ sống và trổ hoa tươi tốt. Trong lòng sen dường như luôn tiềm tàng một nguồn sống dư đầy. Nước dâng đến đâu, những cây sen lại vươn cao đến đó. Vươn lên khỏi lũng sình lầy để đón nắng trời, để gặp gió khơi, để những cánh hoa trắng muốt tinh khôi không bị nhuốm bẩn bởi dòng chảy ô nhiễm…

Chiếc xuồng của họ lờ lững lướt đi vào giữa vườn sen. Những đoá hoa sen gần thật gần, đến độ chỉ cần vươn tay là chạm được. Hương sen thơm ngan ngát. Sắc sen đẹp mặn mà… Sen nhoài người ra khỏi xuồng để với tay hái một đoá hoa sen cạnh mình. Cầm được chiếc hoa trong tay, Sen bất chợt bị mất thăng bằng vì chiếc xuồng chòng chành. Nàng chao qua đảo lại, rồi ngã nhào về phía chàng trai. Có thể là vô tình. Có thể là hữu ý… Chàng trai vội đưa tay đỡ lấy Sen. Khi chiếc thuyền trở lại thăng bằng, Sen thấy mình đã nằm gọn trong vòng tay chàng trai. Nàng nghe cả tiếng con tim mình và con tim của chàng trai đang gióng nhịp dồn dập.

Vội buông vòng tay khỏi Sen, chàng trai ngượng ngùng lí nhí…

– Tôi… xin lỗi…

Ngước nhìn lên, Sen lại một lần nữa nàng chạm vào đôi mắt trong veo. Người ta nói đôi mắt trong veo là cánh cửa sổ dẫn vào một tâm hồn trong veo… Nhìn dáng vẻ lúng túng của chàng trai, Sen lại thấy mình có lỗi.

Tự dưng Sen hỏi một câu ngớ ngẩn:

– Anh… anh có phải là thầy tu không?

Trước sự ngạc nhiên của Sen, chàng trai gật đầu:

– Phải, phải… tôi là thầy tu. À, nhưng mà tôi phải nói mình là sinh viên thì mới có thể về vùng này để làm việc được… vì lý do an ninh mà. Tôi đến đây với tư cách là một thầy giáo thì mới không bị để ý, mới có tự do để tiếp xúc với bà con…

Sen hiểu điều này. Tự dưng nàng thấy mình ngớ ngẩn ghê khi không nhận ra điều ấy ngay từ đầu. Trước đây, cũng đã có nhiều tu sĩ đến liên hệ với bố nàng để vào làm việc trong vùng sâu cho những bà con nghèo. Họ dừng chân ở nhà nàng như một trạm trung chuyển. Họ phải thật kín đáo để thích nghi với những khó khăn kỳ lạ của hoàn cảnh. Hồi ấy, nàng vẫn thường hay nghe bố chép miệng than cuộc sống này sao mà kỳ lạ. Kỳ lạ ở chỗ những người làm việc tốt thì phải âm thầm ý tứ, còn những kẻ làm bao chuyện động trời thì cứ nghiễm nhiên công khai…

Im lặng một hồi, Sen lại lên tiếng:

– Mà nè, tại sao anh… ơ… thầy lại đi tu?…

Dường như đã qua cơn bối rối, chàng trai cười thật tươi:

– Tại thích.

– Sao lại thích? – Sen nhất định không buông tha.

– Hỏi thế thì thật khó trả lời… Nói sao nhỉ?

Sau một hồi lúng túng chàng trai cũng bắt đầu nói. Chàng nói chàng tin rằng mình được sinh ra để đi tu. Đi tu như là điều đã được chuẩn bị cho chàng từ rất lâu. Đi như có một điều gì đó cứ thôi thúc không ngừng trong lòng chàng. Chàng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo đạo đức, bố chàng đã từng là một chủng sinh phải từ bỏ ước mơ sống đời dâng hiến vì chủng viện bị giải tán trước những đổi thay của thời cuộc. Từ nhỏ, chàng đã được nghe kể nhiều về đời tu, về những sinh hoạt trong tiểu chủng viện, về ước mơ không thành của bố… Chẳng biết tự bao giờ, những điều ấy đã trở nên một phần ước mơ của chàng. Dâng hiến cả cuộc đời để sống ơn gọi tu trì trở nên một ướ mơ vừa tự nhiên vừa linh thánh. Ước mơ ấy được nuôi dưỡng từ những giờ kinh tối của gia đình, từ những buổi lễ của xứ đạo, từ những giá trị truyền thống mà người công giáo gìn giữ…

Rồi chàng trai kết luận: có những giá trị đẹp được bén rễ từ rất sâu trong con người. Những giá trị ấy là âm thầm vô hình, nhưng luôn có sức mạnh rõ nét chi phối những chọn lựa và cung cách sống của một con người.

Sen hiểu điều ấy. Sen nhớ đến thời khắc mình vùng vẫy ra khỏi vòng tay của Hưng. Như có một luồng sức mạnh vô hình nào đó từ rất sâu trong con người nàng bừng lên. Sức mạnh ấy giúp nàng vượt thắng những đòi hỏi của con người xác thịt. Sức mạnh ấy đẩy nàng vượt ra khỏi tình trạng thụ động khờ khạo. Sức mạnh ấy bỗng dưng bùng phát đẩy nàng vượt lên cao…

Sau một hồi lâu, Sen lại thắc mắc:

– Hồi giờ thầy… có người yêu chưa? Bộ thầy không biết yêu hay sao mà đi tu?

Chàng trai ngạc nhiên:

– Sao lại không biết yêu…

– À, ý là bộ thầy chưa bao giờ có tình cảm với ai, chưa từng yêu một người con gái nào? Bộ thầy từ bỏ dễ dàng ước mơ về một mái ấm gia đình hạnh phúc sao? Bộ tình cảm của con người là không tốt sao? Bộ tình yêu là có tội sao?

Sen hỏi một thôi một hồi những câu hỏi khó nghe khiến chàng trai phải trợn tròn con mắt. Sau một hồi thinh lặng, chàng trai đủng đỉnh đáp:

– Sen có nghe bài hát này bao giờ chưa nhỉ? – Rồi chàng cất tiếng hát nho nhỏ:

“Chúa không lầm khi Ngài dạy con yêu,
dù đường tình con oan trái nhiều.
Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa,
từng giây rung cảm trong lòng
là từng giây hơi thở rực nóng…”

Không có con người nào chai sạn như sỏi đá, cũng không có con người nào vô tâm như cỏ cây. Con người nào cũng là người được Chúa cho một thân xác bằng thịt và một trái tim bằng thịt. Chúa thật dễ thương khi ban cho thân xác và con tim con người có khả năng rung động và có những tình cảm thật đẹp. Điều quan trọng là con người sống sao với những rung cảm ấy để còn được xứng đáng với ân huệ mà Chúa ban, phải không? Đi tu cũng là một cách lựa chọn để đáp trả lại ân huệ ấy mà.

Điều chàng trai nói làm Sen suy nghĩ về những gì đang diễn ra giữa lòng mình trong thời gian qua. Tất cả những biến động ồn ào cứ gầm gào trong nàng như thể con nước đang chực tràn bờ. Những biến động mới mẻ mà đen đủi. Nàng nhận ra sự giằng co ngay trong chính con người mình giữa một bên là những mời gọi tội lỗi và bên kia là những khao khát vươn lên. Có lúc Sen thấy mình nhỏ bé như một chiếc thuyền con giữa chênh chao sông nước, luôn có thể bị chìm đắm bất cứ lúc nào…

Nàng lặng yên nhìn chiếc xuồng con lướt đi trên mặt sông. Dòng nước giữa đồng sen bị khuấy động đã ùng ục sủi bọt và trở nên đục ngầu. Chiếc xuồng con vẫn hếch mõm lên trời lướt mình về phía trước… Đã quen thuộc với vùng sông nước từ nhỏ, nhưng lúc này Sen mới để ý đến sự trái ngược lạ lùng giữa dòng sông và chiếc xuồng con: dòng sông nước bao la luôn biến động, còn chiếc xuồng con thì mỏng manh bé xíu. Tưởng rằng lúc nào chiếc xuồng con cũng có thể bị tràn phủ ngợp chìm bởi con nước, tưởng rằng những rác rưởi ô uế từ dòng sông luôn có thể cuốn trôi và dìm sâu chiếc xuồng con… thế mà chiếc xuồng vẫn cứ lướt đi nhẹ nhàng trên mặt nước. Chỉ cần con người biết điều khiển và làm chủ, mỗi nhịp hướng mình lên cao sẽ là một bước đẩy họ tiến về phía trước.

Lặng yên một hồi, Sen lại lên tiếng:

– Có lẽ như thầy vậy mà hay… Yêu đương bây giờ lằng nhằng quá, tội lỗi quá…

Chàng trai lại cười thật hiền:

– Hình như chỉ có con người mới hay lằng nhằng, chứ tình yêu đâu có lằng nhằng… Yêu nhau đâu có tội. Bởi vì tình yêu có bao giờ là tội đâu. Làm hoen ố tình yêu của mình mới là có tội. Đạp đổ đi tương lai tốt đẹp của tình yêu mình mới là có tội.

Sen nghĩ đến tình yêu của mình. Bây giờ thật sự nàng chẳng biết phải bắt đầu lại từ đâu. Có lẽ nàng sẽ chẳng còn có thể đối diện với Hưng hồn nhiên và trong sáng như thuở ban đầu. Trong tình yêu, họ đã khuấy lên những điều không được phép khuấy động, và tình yêu ấy đã bị nhuốm bẩn bởi nhiều bợn nhơ…

– Thầy ạ, có phải thời buổi bây giờ sống trong sạch là khó lắm không?

– Có lẽ vậy… Tôi đã qua một thời sinh viên, nên tôi hiểu phần nào những khó khăn của việc sống trong sạch giữa một môi trường bị thấm nhiễm bởi quá nhiều tạp chất. Văn minh phố thị mở ra một thế giới bao la cho người trẻ, nhưng cũng đặt ra trên bước đường họ đi bao là cạm bẫy… Trong con người luôn có những góc khuất mỏng manh và dễ bị thương tổn, thế giới hiện đại lắm khi lại đụng chạm và khai thác chính vào những góc khuất ấy. Con người thì yếu mềm như một nhóm rơm khô dễ cháy, mà những mời mọc của thế giới hiện đại thì mạnh mẽ và quyến rũ như những ngọn lửa thiêu…

– Vậy thầy thường làm gì để có thể vượt lên trên những nhếch nhác của cuộc sống và những tạp nhạp của lòng mình?

Không chần chừ, chàng trai đáp:

– Tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện nhiều với Mẹ Maria. Giữa cuộc sống có nhiều góc tối, tôi cần một mẫu gương thật trong, thật sáng và thật đẹp để soi mình. Trước Mẹ, tôi thấy lòng mình luôn trầm lặng và bình an. Tôi thích những lời nguyện đơn sơ mà sâu lắng của lời kinh Kính Mừng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, bây giờ và trong giờ lâm tử… Lời kinh ấy vừa là lời nhắc nhở tôi về thân phận con người của mình, đồng thời vừa là lời nhắc nhở về cuộc chiến liên lỉ để vươn mình lên cao…

Chiều lặng im. Bóng nắng mênh mông dát vàng trên cả cánh đồng. Gió nhẹ đưa những tán lá sen như thì thào vẫy gọi. Những búp sen đong đưa la đà trên mặt nước. Hương sen vẫn thoang thoảng ngát thơm…

6.

Hai tuần sau chàng trai lên đường. Sen thấy má mình cũng nóng hổi trước những giọt nước mắt chia tay của bà con. Một tháng nơi này, có lẽ chàng trai đã không làm được nhiều điều… nhưng chàng đã khơi dậy được nhiều. Từ ngày gặp chàng trai, Sen mới thấy yêu mình hơn. Được nhìn bằng cặp mắt trân trọng, Sen tự nghĩ mình được nhắc nhở phải biết trân trọng mình hơn.

Sự xuất hiện của chàng trai cũng khiến Sen nhìn lại cuộc đời và lối sống của mình. Chàng trai từ nơi xa xôi đến đây chỉ để làm một chút gì đó cho bà con dân nghèo. Còn nàng, nàng sống cạnh bên họ, chẳng lẽ nàng chẳng thể chia sẻ gì với họ sao? Cuộc sống chung quanh còn biết bao người đang cần mình, có biết bao điều tốt đẹp mình có thể làm cho những người xung quanh… Nàng tin rằng mình luôn có thể làm được điều gì đó đẹp đẹp và hữu ích cho cuộc đời. Đẹp hơn nhiều so với việc chỉ luẩn quẩn trong thế giới nhỏ hẹp của riêng mình. Hữu ích hơn nhiều so với việc chỉ biết giam mình trong những ám ảnh của bao mời gọi ích kỷ và thấp hèn…

Cầm trong tay xâu chuỗi Mân Côi mà chàng trai tặng trước lúc chia tay, Sen tự hứa với lòng mình nhiều điều lắm. Nàng sẽ tập cho mình thói quen tâm sự với Mẹ mỗi tối. Nàng sẽ luôn ngước nhìn lên Mẹ để tìm thấy cho mình con đường đi về vùng trời ánh sáng…

Sẽ có nhiều điều nơi nàng được bắt đầu lại. Và Sen sẽ thực là Sen…

Cao Gia An, S.J.
Roma, cuối tháng 01.2010

Tập Truyện Ngắn “Hoa Phượng Về Trời”, NXB Tổng Hợp, TpHCM 2014

Như Ngọn Nến Tiêu Hao

Đọc xong kinh tạ ơn sau thánh lễ, Minh cúi đầu chào Chúa trên bức tượng chịu nạn rồi nhẹ nhàng ra khỏi phòng thánh. Tâm hồn chàng lâng lâng trong niềm bình an sâu lắng sau khi dâng một thánh lễ sốt sắng. Chàng đang sống những ngày tháng đẹp nhất đời người, sau một tuần được làm linh mục của Chúa.

Đang muốn tìm gặp cha xứ để nói vài lời cám ơn vì đã mời mình về đây dâng lễ, Minh dừng chân trên bục cửa, dõi mắt nhìn ra khoảng sân nhỏ bên hông nhà thờ. Gió chiều nhè nhẹ mơn man mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ của vị linh mục trẻ. Sân nhà thờ cuối chiều ngập nắng. Giàn hoa giấy đỏ rực rỡ dọc hai bên lối đi. Bên giàn hoa, một cô bé khoảng bốn năm tuổi với chiếc váy đầm màu xanh da trời đang tung tăng đuổi theo chú bướm vàng. Chú bướm chập chờn bay lên lượn xuống. Cô bé mê mải, cho đến khi đâm sầm vào người Minh.

– A ! Ông cố ! Con xin lỗi ông cố !…

Minh mỉm cười thân thiện trước vẻ bối rối của cô bé. Chàng cũng mỉm cười vì lần đầu tiên trong đời được nghe gọi là ông cố. ‘Ông cố’ dịu dàng cúi xuống trên cô bé:

– Ừ ! Ông cố chào con ! Con tên là gì ?

– Dạ, con tên là Minh Anh, con là con của mẹ Trúc Thanh và bố Dương Bình.

Cô bé vừa trả lời, vừa ngước lên nhìn ông cố. Trên khuôn mặt trái xoan thánh thiện là đôi mắt trong veo. Chạm vào đôi mắt ấy, Minh bỗng thoáng giật mình. Trong đôi mắt bé Minh Anh có nét gì đó thật thân quen gần gũi. Chàng lặp lại:

– Con là bé Minh Anh, con của mẹ Trúc Thanh…

Trúc Thanh, phải rồi, cái tên ấy, đôi mắt ấy !..

2.

Trúc Thanh không được sinh ra trong một gia đình công giáo. Cả dòng họ của nàng đều là người bên lương. Hồi nhỏ, nhà thờ là cả một thế giới bí ẩn và lạ xa đối với nàng. Lớn lên một chút, đến tuổi biết mơ mộng, nhà thờ bỗng hấp dẫn nàng hơn. Xem phim, nàng thấy những đám cưới được tổ chức trong nhà thờ thật đẹp và trang trọng. Nàng mơ một ngày được làm cô dâu xúng xính trong chiếc áo đầm trắng muốt, được tay trong tay với một chú rể đẹp trai, họ cùng dìu nhau bước vào lòng nhà thờ ngập đầy hoa và nến, khi ca đoàn trổi khúc thánh ca du dương… Ở cái tuổi mộng mơ, Trúc Thanh đã nhiều lần để cho trí tưởng tượng bay bổng vẽ nên chân dung chú rể lý tưởng của lòng mình.

Tưởng rằng nàng đã gặp được giấc mơ ấy ở năm thứ hai đại học. Bước vào thời sinh viên, Trúc Thanh trở thành đích nhắm của nhiều chàng trai, nhờ khuôn mặt trái xoan thanh cao và giọng ca ngọt ngào. Đến hết năm thứ nhất, Trúc Thanh chẳng tìm được khuôn mặt của chàng rể mà nàng đã mơ… cho đến lúc Minh xuất hiện.

Minh học trên Trúc Thanh hai lớp. Chàng xuất hiện như một diễn viên phụ trong dàn nhạc của trường, lặng lẽ đệm đàn cho Trúc Thanh hát trong những buổi văn nghệ. Cho đến một hôm, để lấp vào một tiết mục bị hủy, diễn viên phụ phải bước ra ánh đèn sân khấu. Với phong cách đệm guitar nhẹ nhàng mang hồn cổ điển, giọng ca trầm ấm, mái tóc nghệ sĩ ngông ngông… Minh đã làm rung động con tim của Trúc Thanh ngay từ buổi đầu giáp mặt.

Trúc Thanh hạnh phúc khi biết Minh là người có đạo. Nàng tin đây là người mà Trời đã định sẵn để lấp đầy mơ ước trong lòng mình. Những lần cùng Minh bước vào ngôi thánh đường tham dự thánh lễ ban chiều, dù chưa hiểu gì về những nghi thức đang diễn ra quanh mình, Trúc Thanh vẫn thấy tâm hồn mình bình an lạ lắm. Nàng càng ngạc nhiên hơn nữa khi chứng kiến một người vững vàng như Minh mà cũng biết quỳ gối và gục đầu cầu nguyện. Nàng không hiểu được những gì đang diễn ra trong lòng Minh, nhưng nàng có thể đọc được phần nào chiều sâu thẳm trong tâm hồn chàng qua đôi mắt kính cẩn đang đăm đăm nhìn lên bàn thờ Chúa.

Qua những chăm sóc âm thầm nhưng chu đáo của Minh, nàng biết càng ngày mình càng đi gần đến ước nguyện.

3.

Sau ba tháng hè, Minh xuất hiện trước mặt Trúc Thanh, lặng lẽ. Sau ba tháng chờ đợi trong nỗi nhớ cồn cào, thế mà ngày gặp lại Trúc Thanh như thấy có gì đó thật hụt hẫng. Minh ngồi trước mặt nàng, chỉ lặng lẽ. Đôi mắt chàng như đang ở một chốn xa xăm nào đấy. Chàng như đã trở thành một con người khác. Mái tóc nghệ sĩ ngông nghênh đã được cắt gọn. Chiếc áo pull bụi bặm được thay bằng chiếc sơ mi trắng tinh lịch sự… Trúc Thanh đoán rằng có lẽ đã có điều gì đó thay đổi thật ghê gớm trong tâm hồn Minh. Nàng mơ hồ linh cảm rằng thay đổi ấy sẽ đưa Minh ra khỏi cuộc đời nàng. Chàng ngồi đó, gần thật gần, mà như xa diệu vợi.

Mùa hè năm ấy Minh quyết định đi tháng tình nguyện. Chàng muốn tìm kiếm kinh nghiệm mới trong mùa hè cuối cùng của đời sinh viên. Bởi chàng biết, một khi đã ra trường, bị cuốn vào công việc và tiền bạc, chắc khó còn có cơ hội để chàng làm những việc thiện nguyện đầy ý nghĩa.

Minh về dạy học ở một tỉnh vùng sâu cho những đứa trẻ không có cơ hội đến trường. Đó là một làng quê nghèo. Trẻ con ở đấy quen với việc chạy nhảy ngoài đồng hơn là phải ngồi bó gối một chỗ trong lớp học. Để có thể được làm thầy giáo, những ngày đầu Minh cũng phải ra đồng chạy nhảy với đám nhóc, cũng leo cầu nhảy sông, cũng chèo xuồng chổng vó… Sau một tuần, Minh gom được một đám nhóc quanh khoảng sân của ngôi chùa nhỏ nằm bên mép làng. Trong cái không gian lặng lẽ ấy, Minh bắt đầu gieo những con chữ đầu tiên vào đầu bọn nhóc.

Chỉ cách có một con mương nhỏ, nhưng ngôi chùa hầu như tách biệt với cuộc sống đang nhộn nhịp trong làng. Sân chùa buổi chiều ngập đầy lá rụng. Gió chiều xào xạc về trên những tán bồ đề rợp bóng.

Theo như người ta kể, khuôn viên nhà chùa trước đây là mảnh đất thuộc về một phú ông trong làng. Sư trụ trì trước đây vốn là cậu út trong gia đình phú ông. Cậu đem lòng yêu thương một cô gái nghèo trong làng, bất chấp sự cấm cản của gia đình. Chẳng biết gia đình đã dàn xếp thế nào mà sau một đêm, cả gia đình cô gái đột nhiên biến mất. Cô gái ra đi với đứa con đang thành hình trong bụng. Từ dạo ấy cậu út chuyển vào ở trong mảnh đất nhỏ bên mép làng. Một ngôi chùa nhỏ mọc lên. Lặng lẽ và bình yên.

Nhưng cuộc sống trong làng thì không bình yên được như ngôi chùa nhỏ. Cả làng vẫn còn nghèo, nhưng những ảnh hưởng của văn minh đã đi trước và đập lên cuộc sống bình yên của cả làng. Hoa quả của nó là những đứa trẻ còn đỏ hỏn lâu lâu lại bị bỏ rơi trước cổng chùa. Nhà chùa bỗng nhiên thành viện mồ côi.

Một cách vô tình, lớp học của Minh trở nên nơi gặp gỡ cho những đứa trẻ trong làng và những đứa trẻ mồ côi trong chùa. Được vào chùa, bọn trẻ con trong làng thích chí vì được chạy chơi thỏa thích sau mỗi giờ học. Những đứa trẻ mồ côi trong chùa thì mừng rỡ hơn vì có thêm bạn mới. Sân chùa đầy ắp tiếng cười.

Kết thúc hai tháng tình nguyện. Chia tay ngôi làng nhỏ. Mấy đứa trẻ ôm Minh mà khóc: “Thầy đừng đi Thầy ơi, ở lại đi Thầy ơi, ở lại là bố của tụi con. Ở đây đứa nào cũng có bố chỉ có tụi con là không. Tụi nó tụi gọi con là mấy đứa con hoang…”

Đó là lần đầu tiên trong đời Minh khóc trước mặt người khác. Trên chuyến xe về lại thành phố, lời của sư trụ trì cứ vang vọng trong đầu Minh: “Hy sinh một cuộc đời để nhiều cuộc đời khác được sống, đáng lắm chứ, thí chủ!

4.

Chia tay. Họ chia tay bình thường như bao cuộc chia tay khác. Minh ra trường, tìm một khởi đầu mới trên con đường vừa nhen nhóm giữa lòng mình. Trúc Thanh ở lại tiếp tục việc học hành trong những ngày tháng vô vị.

Trúc Thanh không dám khóc vì sợ làm bận lòng Minh. Nàng biết Minh đã quyết. Nàng không hiểu tại sao Minh lại chọn con đường ấy, nhưng nàng lại tin Minh chẳng bao giờ chọn lựa sai.

Trước lúc chia tay, Minh tặng Trúc Thanh một cây nến nhỏ. Minh nói cây nến này người ta hay dùng để đốt trong nhà thờ, nhất là vào những đêm kinh nguyện. Giữa thế giới văn minh này, nến không còn cần thiết cho cuộc sống, nhưng nến vẫn thật cần thiết cho tâm hồn. Minh dặn nàng khi nào quá mệt mỏi với cuộc sống bề bộn, khi nào thấy tâm hồn mình quá lạnh lẽo, khi nào thấy cần có một người để tâm sự, hãy đốt nến lên. Và lặng lẽ.

Cây nến nhỏ vẫn còn nằm một góc trong ngăn bàn làm việc của Trúc Thanh. Ngọn nến cho lòng Trúc Thanh nhiều ấm áp và bình an. Nhưng ngọn nến chỉ được đốt lên mới có một lần. Nàng không đủ can đảm nhìn những vệt chảy loang lỗ trên thân nến. Nàng không đủ can đảm nhìn thân nến cứ tiêu hao dần dần mỗi khi được đốt lên. Nàng tự hứa với lòng sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, để không bao giờ phải đốt nến nữa…

Trúc Thanh xin học đạo. Không còn phải để được làm cô dâu xúng xính. Nàng muốn tìm hiểu con đường mà Minh đang đi. Lạ lùng thay, càng tìm hiểu nàng càng cảm thấy con đường ấy quá xa với mình. Nàng không hiểu, nhưng càng ngày nàng càng chấp nhận hơn. Nàng tin Chúa có sự sắp xếp của Chúa. Nàng tin rằng với sự sắp xếp ấy nàng gặp được Dương Bình, nàng có bé Minh Anh, nàng có một mái gia đình đầm ấm.

5.

Tan lễ chiều, Trúc Thanh về nhà trong tâm trạng thật lạ. Vậy là chàng đã về, đã trung thành với chọn lựa của mình, đã hoàn toàn thuộc trọn về Chúa. Mừng cho chàng… Nhưng sao tâm trạng của nàng lạ quá. Dường như có một chút gì đó chợt nhói lên trong nàng. Phải chăng là khoảng trời mơ tưởng đã ngủ yên chợt cựa mình thức giấc? Phải chăng là một chút hy vọng vô lý nhưng dai dẳng trong nàng vừa vụt tắt? Phải chăng nàng mang cảm giác tiếc nuối của cái thời còn là một cô bé vụng dại, khi lỡ tay để cho chiếc bong bóng vụt bay về trời?

Đêm. Trúc Thanh một mình ngồi lặng lẽ trong căn phòng. Tiếng gió ngoài hiên xào xạc. Đêm ngập tràn bóng tối.

Nàng hiểu tại sao Minh lại tặng nàng cây nến nhỏ. Cuộc đời chàng giống như một cây nến. Cây nến phải được đốt lên, phải tiêu hao đi, để cuộc đời đầy bóng tối này được thêm một chút ánh sáng. Nàng nghĩ đến ngọn nến lặng lẽ bên nhà chầu trong đêm mưa bão. Nến cho người ta biết đường mà tìm về…

Đêm ấy có một người lặng lẽ đốt nến giữa căn phòng lung linh ấm áp.

Roma – những ngày cuối năm 2008

Tập Truyện Ngắn “Hoa Phượng Về Trời”, NXB Tổng Hợp, TpHCM 2014

Một Lần Đi Lướt Qua Đời Nhau

Cuộc sống thường cho con người những thử nghiệm tưởng như không thể vượt qua. Đẹp biết bao nếu người ta trải qua những khắc nghiệt của cuộc sống mà vẫn có thể giữ được trong tâm hồn mình nhiều nét cao quý!

–    Ê, làm gì ở đây zợ?

+ …

–    Ê, sao tui hỏi mà hổng trả lời?

+ Ở đây có ai tên là ê đâu nhóc!

–    Tui hổng giỡn à nghen… Ông làm gì chui zô ngồi trong vườn nhà tui?

+ Ủa, đây là vườn nhà nhóc hả? Có làm gì đâu, chỉ ngồi học bài thôi…

–    …hiiii… học bài gì mà ngồi thu lu dưới gốc cây, giống ông địa trên bàn thờ nhà tui quá!

+ …

–    Nè, đang học cái gì zậy?

+ Học bài

–    Học bài là học cái gì?

+ Nhóc hỏi nhiều quá, im lặng một chút cho người ta học coi…

+ … Xong rồi, thuộc hết rồi ! Nhóc, cầm cái quyển vở này ! kiểm tra coi anh có thuộc được hết chưa hen.

Cô nhóc vụt đứng lên, ù chạy vào nhà. Nhóc này lạ thật !

***

–    Nè, hôm qua tui nghe có tiếng thổi sáo ở ngoài này. Là ông thổi hả?

+ Ông ông tui tui gì… Nhóc nhỏ tuổi, phải gọi anh bằng anh, xưng em…

–    Anh cái con khỉ! lớn hơn ông tui còn gọi bằng thằng được nữa là! Quen rồi…

+ ….

–    Nè, học sắp xong chưa ?… thổi sáo đi !

+ …

–    Người gì mà chảnh, thấy ghét !

+ Nhóc! con gái lớn rồi, sao mà nói chuyện cộc cằn vậy ?

–    Kệ tui… mà nè ông ở đâu mới tới đây hả ?…

+ …

–    Hổng trả lời thì thôi… thấy ghét !

Đúng nó là kẻ ở xa mới tới. Gia đình nó chuyển đến đây để làm ăn. Cái thị trấn nhỏ này lạ quá. Nhịp sống, nhịp sinh hoạt, khung cảnh… mọi thứ đều khác với quê nó. Nó cứ phải làm quen với mọi thứ từ đầu.

Những đứa trẻ ở thị trấn này khác nhiều so với mấy đứa nhỏ ở quê nó. Như cô bé này chẳng hạn, lanh lợi nhưng lại đanh đá và ăn nói bổ bã… nản ghê!

***

Mấy ngày nay con bé thắc mắc lắm. Thắc mắc về cái người cứ thu lu ngồi trong vườn nhà nó. Ở khu này, vườn của người ta không cần rào chắn gì hết. Người ta có thể đi xuyên suốt từ vườn nhà này sang vườn nhà kia. Vườn nhà con bé rợp bóng cây và lặng lẽ khác với cái ồn ào xô bồ ngoài mặt đường thị trấn. Chắc vậy nên cái lão này mới hay ngồi dưới gốc cây nhà nó để học. Mà cái lão này ham học ghê. Học để làm gì nhỉ ? Chắc là để kiếm được nhiều tiền !

Còn nó, nó sướng hơn lão, vì được sinh ra là con gái. Mẹ nó nói con gái thì không cần phải học. Sinh ra là con gái, thiếu gì cách để kiếm tiền. Giống như mấy chị của nó, có phải học hành gì đâu mà tiền bạc thì lúc nào cũng rủng rỉnh.

Con bé được sinh ra ngay giữa lòng thị trấn. Từ nhỏ tới lớn, nó có biết trường học là cái gì đâu. Nó được quẳng ra đó để lớn lên một cách tự nhiên, tự quan sát người ta, tự học hỏi, tự sống. Là con nít, nó biết học ai ngoài mẹ và các chị của nó.

Hồi nhỏ, nó thấy mẹ và chị thường có nhiều khách. Mà lạ ghê, cứ mỗi lần có khách là mẹ biểu nó đi chỗ khác chơi, đừng có tò mò chuyện của người lớn ! Dần dần nó hiểu hơn chuyện của người lớn là chuyện gì. Bằng tuổi này, nó chưa là người lớn, nhưng cũng đâu còn là một đứa con nít. Nhà chung một cái sàn gỗ. Mấy cái bức bình phong mỏng manh đâu có thể che được mắt nó những cái chuyện mấy người lớn kia đang làm. Có những tối, nó nghe cái sàn gỗ rung lên bần bật. Trong chập chờn giấc ngủ, nó nghĩ chắc người ta đang làm chuyện người lớn! Kệ…

Nó lại nhớ tới cái lão thu lu ngồi trong vườn nhà mình. Lần đầu tiên có người gọi nó là nhóc. Ở đây có ai kêu nó là nhóc đâu. Người ta kêu nó là con đĩ con. Nó không hiểu đĩ con nghĩa là cái gì. Mà nó cũng chẳng cần quan tâm.

Mà không hiểu sao nó cứ thấy cái lão này đáng nghi nghi sao ấy. Nó nghe mẹ hay nói với mấy chị của nó đừng có tin bất cứ thằng đàn ông nào hết, trừ những thằng có tiền. Vậy nên nó thấy cái lão này đáng nghi…

***

Ba năm trôi qua nhanh thật. Đủ để thằng nhóc quen với môi trường mới. Đủ để con nhóc lớn lên thành một nàng thiếu nữ xuân thì. Đủ để con nhóc thân với thằng nhóc. Đủ để thằng nhóc có một chút ảnh hưởng nào đó trên con nhóc. Và đủ để có những đổi thay và trên cuộc đời của mỗi người.

Tối hôm đó, thằng nhóc ngồi một mình ngoài góc vườn trên cái mô đá quen thuộc.

–    Sao anh ngồi một mình ngoài này… chuẩn bị đi học xa phải không ?

+ Học hành gì nữa nhóc…

–    Anh đăng kí đi học đại học chưa ?

+ Không đi đâu hết, nhóc. Ở nhà đi làm kiếm tiền thôi…

–    Sao không đi…

+ Anh thi rớt rồi

–    Anh nói xạo… nhỏ bạn em nói anh đậu tốt nghiệp cao nhất trường

+ Cao nhất trường…. thì để làm gì hả nhóc? Có kiếm được ra tiền đâu

–    Anh đừng có như vậy mà, em xin anh đấy! Anh phải khác với mấy người đàn ông khác… giống như em đã nghe lời anh cố gắng sống khác với các chị của mình.

+ …

–    Em biết anh còn có một cuộc sống khác, một cuộc đời khác. Đừng để cái thị trấn này kìm chân mình lại. Đừng để những cái tạp nhạp tầm thường kéo mình xuống… anh ơi !

+ Ừa…

–    Em cám ơn anh…

+ Sao mà cám ơn ?

–    Vì anh đã thương em, đã dạy cho em biết bao nhiêu điều… và anh không có lợi dụng em!

Quả thật nó thương con nhóc chứ. Sống giữa một môi trường đầy dẫy những gương mù gương xấu, lạ làm sao cô bé vẫn giữ được cái thanh thoát và trong trắng đến kỳ lạ. Nhìn cô bé, nó lại nghĩ đến hình ảnh của đóa sen giữa đầm lầy… Nó đã cố công để nâng đoá sen mọc lên. Đẹp và thơm ngát.

Còn nó, từ ngày bước chân vào thị trấn này, nó thấy mình mỗi ngày một nên khác. Nhịp sống ở thị trấn dạy cho nó rằng muốn sống người ta phải biết cách kiếm tiền. Những lý tưởng sống đẹp của nó dường như càng ngày càng tắt lịm đi và trở nên thực dụng hơn. Nó thấy người ta không cần học mà vẫn có thể kiếm được nhiều tiền, vẫn có thể ra đời với cái mặt vênh vênh váo váo. Còn nó, đèn sách để mà làm gì ? Học hành để mà làm gì ?… Bao nhiêu năm được ăn học, được dùi mài sách vở ở ghế nhà trường, nó thấy mình vẫn chưa làm được gì cho bố mẹ cả. Những tháng ngày bố mẹ phải lao đao lận đận nơi đất khách, những lần bố mẹ phải chống chọi với chuyện tiền bạc nợ nần và bị người ta chửi bới… nó thấy mình chỉ là một thằng con trai vô dụng.

Có những lúc nó chỉ muốn bỏ học để lao vào kiếm tiền. Nó không tin rằng mình kém khôn ngoan hơn người ta. Nó không tin rằng mình sống không lại người ta. Ba năm sống nơi đất lạ đủ để cho nó chứng kiến nhiều mánh khóe lật lọng giữa dòng đời. Nó không tin rằng mình không làm được tất cả những điều ấy. Nếu cuộc sống cứ bắt người ta phải trở nên dữ tợn để mà sống, nó không tin rằng mình không có khả năng để trở thành dữ tợn. Với những bạc đãi mà cuộc sống nơi đất lạ dành cho gia đình nó, nó tin rằng mình còn có thể trả lại nhiều hơn thế…

Nó biết ba mẹ muốn nó học hành để có một tương lai tốt đẹp. Nó cũng đã nhiều lần thuyết phục mình như thế. Nhưng những lúc phải đối diện với những quá đáng của cuộc sống, mà nạn nhân không ai khác hơn chính là gia đình đơn sơ chân chất của nó, nó chỉ muốn đạp đổ tất cả. Nó muốn lao mình vào đời để trả lại sòng phẳng tất cả những gì cuộc đời đã gây ra cho gia đình nó.

Nó vật vã chiến đấu với chính mình. Nó sợ những điều tốt đẹp đang chết dần chết mòn trong nó. Nó mường tượng nhận ra những thấm nhiễm từ cái môi trường sống này cứ mỗi lúc một lớn dần lên trong mình. Biết làm sao được, người ta sinh ra và lớn lên giữa lòng một xã hội đầy những vấn đề. Họ kế thừa những vấn đề ấy. Họ sống với những vấn đề một cách tự nhiên như thể chúng đã là một phần trong cuộc đời mình. Đâu phải con người không có khả năng phân biệt phải trái, nhưng sống hoài giữa những cảnh trái khoáy, họ dễ trở thành quen. Tha hóa là cái nguy cơ luôn có trong mỗi con người.

Nó đã tình cờ đi qua đời con nhóc, và kéo con nhóc ra khỏi cái vũng bùn. Lúc này, hình như lại đến lượt nó cần được kéo ra. Đời chúng nó cần có nhau. Giữa cái bãi bùn tạp nhạp của cuộc đời, nó cần lắm được nhìn thấy một chút trong trắng và thanh thoát của lòng người. Nó cần một chút niềm tin. Chỉ một chút niềm tin thôi, nó sẽ được cứu rỗi…

……….

–    Anh có tin vào những cuộc gặp gỡ cơ duyên không ?… Em thì tin. Em biết rằng trong cuộc đời có những cuộc gặp gỡ chỉ tình cờ, nhưng nó có khả năng thay đổi toàn bộ cuộc đời của người ta…

………

Thằng nhóc đi. Tiếp tục hành trình tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn, sống cho những điều tốt đẹp hơn.

Một thời gian sau con nhóc cũng đi.

Thị trấn vẫn đều đều trong nhịp sống quen thuộc. Lâu lâu nhắc tới con nhóc, người ta lại trề môi. Cái con, chắc là đã bỏ nhà theo trai chứ gì! Mẹ nó thế, chị nó thế, thì nó cũng thế thôi! Gì chứ cái ngữ ấy mà bỏ nhà theo trai thì cũng đâu có gì là lạ…

Sống với hàng loạt vấn đề, người ta dễ đinh ninh vào những nhận định của mình và thích đưa ra những lời kết án. Hình như họ thường tìm thấy một chút thỏa mãn nào đó trong việc kết án người khác. Đạp người khác xuống, người ta dễ thấy mình cao hơn.

Phải chăng vì người ta thường không tin vào sự trong sạch của những kẻ lớn lên từ vũng bùn, nên họ vẫn cứ cắm cúi lao đầu vào trong những vũng bùn của cuộc sống ?!!

Họ đâu biết rằng giữa đời có những cuộc gặp gỡ tình cờ có thể làm thay đổi trọn vẹn cuộc đời của người ta. Có khi chỉ là một lần đi lướt qua đời nhau…

Roma – Những ngày cuối năm 2008

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn  Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp TpHCM, 2014, tr. 67-78

Kinh Tối

Nó không thích đọc kinh tối. Nếu được phép nói thật lòng mình, nó sẽ hét to lên: con ghét đọc kinh tối lắm! Dù sao thì đó chỉ là chuyện thích hay không thích của một đứa con nít. Trong gia đình sống chung ba thế hệ thì một đứa con nít như nó chả bao giờ có cơ hội để mà hét toáng lên điều mình thích hay không. Thế nên cứ mỗi tối, nó lại nghiêm chỉnh như một thằng cháu ngoan, đong đưa hai chân trên ghế, lấy hết hơi hết sức để đọc thật to những kinh kệ mà nó đã thuộc nằm lòng… Nghe nó đọc kinh, ông bà nội thỉnh thoảng nhìn nhau mỉm cười.

Hồi đó, chả bao giờ nó có thể dự trọn vẹn một buổi kinh tối. Con nít, lấy đâu hơi sức mà đọc cho hết các kinh từ đầu buổi tới cuối buổi. Hét toáng lên được một hồi thì giọng của nó cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Rồi trong cái thanh âm rì rầm đều đều của cả đại gia đình, nó bắt đầu gục gà gục gặc, rồi chìm vào trong giấc ngủ lúc nào cũng chẳng biết. Nó đánh một giấc ngon lành, cho đến sáng dậy thì thấy mình đang nằm trong mùng của bà nội. Cứ thế, giấc ngủ của tuổi thơ nó được ru đều bởi lời kinh của cả gia đình, bởi hương trầu dìu dặt của bà nội.

Từ khi trong xóm có được vài chiếc Tivi trắng đen, nó tham dự giờ kinh tỉnh táo hơn. Nghĩa là vẫn hét toáng lên ở đầu buổi, gục gà gục gặc ở giữa buổi, nhưng càng về cuối buổi nó càng tỉnh. Tỉnh để sau đó còn được bà nội dẫn đi xem cải lương. Nó mê cải lương chẳng kém gì bà nội, dù rằng buổi xem cải lương của hai bà cháu bao giờ cũng kết thúc bằng cái cảnh bà nội một tay xách tấm chiếu, một tay ẵm nó đã ngủ khò khò từ khi nào. Sáng ra nó cằn nhằn phụng phịu: “Sao bà nội hổng chịu gọi con dậy để xem cho hết tuồng… rồi Công Chúa có cứu được Phò Mã Cùi khỏi tay bà Nữ Chúa Rắn hông nội?” Sáng sớm, còn trong mùng, bà nội rì rầm kể lại cho nó nghe đoạn kết của vở tuồng hôm trước. Nhảy tót xuống giường, nó chạy đi tìm ông nội để líu lo kể lại, như thể ta đây tham dự từ đầu buổi tới cuối buổi, ta đây có thể kể lại vanh vách. Bà nội nhìn nó cười tủm tỉm.

Nói gì thì nói, nhờ có mấy tuồng cải lương và mấy vở kịch trên Tivi mà giờ kinh tối của nó được thêm nhiều hương vị. Nghĩa là miệng nó vẫn đọc kinh mà trong đầu thì đầy ắp hình ảnh của các nhân vật cải lương, cổ tích. Nó tưởng tượng Chúa như ông Tiên đã hiện ra dạy cho chàng Thạch Sanh phép thuật, nó cầu nguyện để ở tập tới ông Tiên lại hiện ra cứu chàng khỏi tay gã Lý Thông độc ác và cưới được Công Chúa. Có lúc, nó lại thấy Chúa là ông Bụt trong vở Tấm Cám, vừa quyền phép vừa luôn hết lòng yêu thương và bảo vệ người nghèo. Lâu lâu, Chúa lại mang hình ảnh của ông Vua nhân từ và khôn ngoan như trong tuồng Cánh Hồng Giữa Hoàng Cung… Từ đó, giờ kinh tối của nó luôn đầy ắp những hình ảnh vừa đẹp đẽ vừa thánh thiêng, là nơi để nó gởi gắm và xây dựng những nguyện ước đơn sơ trong sáng của tuổi thơ. Tối tối, trong nhịp kinh đều đều, trong tiếng phe phẩy nhẹ nhàng của chiếc quạt giấy trên tay ông nội, trong mùi trầu hăng hăng của bà nội, mùi hương bồ kết thoang thoảng từ mái tóc mới gội của cô Út… nó thả mình vào khung trời mơ.

Khi nó lớn hơn một chút, đủ để biết cách đọc kinh tối mà không cần phải gây ồn ào, không còn bị ngủ gục, thì cả ông bà nội đều mất. Ông bà cùng dự giờ kinh với nó từ trên một góc nhỏ của bàn thờ. Một cách mơ hồ, nó tin rằng ông bà nội trên bàn thờ đang nhìn nó, đang nghe tiếng nó đọc kinh, đang cùng cầu nguyện với nó. Nó xin ông bà nội cầu nguyện với Chúa cho gia đình nó bình an, cho ba má nó sức khỏe, cho anh em nó học hành giỏi giang…

Gia đình nó chuyển đi làm ăn xa. Đi trong đêm. Nơi xứ lạ quê người, cả gia đình nó vẫn tiếp tục thói quen đọc kinh tối, như một phần sinh hoạt không thể thiếu của gia đình. Ba má nó vẫn thành kính, mấy đứa em nó vẫn đơn sơ dâng lời nguyện trong đêm. Chỉ có nó là khác.

Nó mơ hồ nhận ra những nghi nan đang ngày càng lớn dần giữa lòng mình. Những thăng trầm nghiệt ngã trong hoàn cảnh của gia đình bắt nó phải đặt lại câu hỏi về vị Chúa mà nó hằng cầu nguyện. Chúa có yêu thương người ta hết không? Chúa có quyền phép thật không? Tại sao Chúa đã liên tục làm ngơ trước những thăng trầm của gia đình nó? Chúa hình như đã chẳng bênh vực người nghèo trước những áp đặt và bóc lột của người giàu. Chúa dường như cũng chẳng đủ quyền năng để đem đến những kết thúc có hậu như các vở tuồng cải lương. Nó đã bao lần nguyện xin Chúa tha thiết, thế mà… Từ một vị Chúa quyền năng như ông Vua, ông Tiên, ông Bụt, hình ảnh Chúa trở nên mờ nhạt, mơ hồ và ngày càng vụn vỡ trong nó. Giữa lòng nó trổi lên câu hỏi mà nó không thể nào cưỡng lại được: Có Chúa không? Có Chúa thì sao Chúa lại để cho gia đình nó gặp bao nhiêu rủi ro đến độ phải bỏ quê mà đi, đi như những người trốn nợ, bị người ta hắt hủi khinh khi đủ điều. Gia đình nó đã làm gì có lỗi đâu?

Nó cũng bắt đầu hoang mang, không dám chắc rằng ông bà nội vẫn cùng đọc kinh với nó mỗi tối? Ông bà nội chết rồi kia mà! Có chắc là sau khi chết, người ta vẫn còn hiện diện được với con cháu không? Những điều nó học được ở trên trường khác xa những gì mà nó mơ hồ xác tín từ hồi còn nhỏ lắm…

***

– Chào ba con đi học về, chào bác Tư  con đi học về.

Chào khách xong, vứt vội chiếc cặp vào góc, nó chạy xuống bếp lục cơm ăn tranh thủ để còn kịp giờ làm thêm buổi tối. Trên nhà, ba nó và ông Tư, bạn hàng bán hủ tíu gõ, vẫn tiếp tục câu chuyện:

– Nghe nói thằng cháu học khá lắm hả anh Năm?

– Dạ, cũng được anh Tư ạ!

– Thằng nhỏ giỏi thiệt, vừa đi học vừa đi làm… à, mà nó học cùng lớp với mấy nhỏ con bà bác sĩ đầu ngõ hả?

– Dạ…

– Nói hổng phải khen, tui thấy anh nhịn tốt thiệt, cái bà bác sĩ đó cứ cà khịa anh hoài, nào là nghèo mà bày đặt hay nói chữ, nào là bán cháo lòng mà cũng bày đặt cho con đi học… phải mà bả gặp tui…

– Thôi mà anh Tư…

– Bộ chú hổng bực mình hả?

– Dạ… thì cũng bực chứ, nhưng mà nhịn được thì tốt hơn anh ơi!

Ngập ngừng một chút, ba nó tiếp:

– Với lại tui cũng không quen chửi rủa người ta. Mình chỉ có một cái miệng. Cũng cái miệng này tối tối mình đọc kinh cầu nguyện với Chúa, mà cũng cái miệng này mình tru tréo chửi rủa người ta… làm vậy coi sao được!

– Mà nè, chú nói cầu nguyện tui mới nói…

Một chút im lặng dè chừng, rồi ông tư tiếp:

– Người ta nói nhà chú tối nào cũng cầu nguyện, cầu nguyện hoài mà…

– …mà có khá hơn chút nào đâu, phải hông anh Tư?

– Tui chỉ nghe họ độc mồm nói vậy thôi, đừng buồn chú Năm à!

– Không đâu anh Tư, họ không hiểu cũng phải thôi, vì chính tui là người trong cuộc mà cũng đã phải trải qua một thời gian dài nghi nan thất vọng…

Ở nhà dưới, đang nhai dở miếng cơm, nó lắng tai để theo dõi câu chuyện. Nhà trên, giọng ba nó trầm trầm tiếp tục:

– Tui hỏi Chúa hoài, sao để cho nhà con khổ quá… nhưng mà đến Thị Trấn này, tui mới thấy nhiều người còn khổ và đáng thương hơn mình nhiều anh Tư à! Có người nghèo khổ vì thiếu thốn tiền bạc, nhưng đáng thương hơn là những người tiền bạc ê hề trong nhà mà cũng khổ, khổ vì giành giật bon chen, khổ vì con cái hư hỏng…

Ngừng một lúc rồi ba nó tiếp:

– Cũng có những lúc tui ước ao giá mà mình giàu hơn, đỡ khổ hơn, nhưng mà nghĩ lại thấy nghèo mà gia đình đầm ấm lại là một cái phúc…

– Ừ, tui thấy gia đình chú nghèo mà hạnh phúc thiệt đó, hổng phải nhà nào cũng có được đâu.

– Với lại đọc kinh cầu nguyện hơn nửa đời người, tui mới cảm nghiệm được một điều quan trọng: Chúa là Cha anh Tư à! Cha thì biết con mình cần gì, và bao giờ cũng dành cho nó cái tốt nhất. Con tui nó muốn nhiều thứ, nhưng là cha thì tui chỉ nên cho những thứ nó cần. Còn nhiều thứ nó muốn mà không thật sự cần thiết cho nó, thì cho làm gì phải hông anh Tư?

– Chú đang nói về chuyện của Chúa với gia đình chú hả?

– Dạ.. chỉ tiếc là hồi đó tới giờ, tui thường đến với Chúa không phải như một đứa con đến với cha, nhưng mà như một thằng ăn xin. Tui kỳ kèo hoài mà hông được, nên đâm chán là đúng rồi!

– Vậy chứ cầu nguyện mà hổng xin thì chú biểu làm cái gì? – ông Tư ngạc nhiên.

– Thì cũng xin chứ, nhưng mà không phải là xin Chúa làm theo ý mình, mà là xin làm sao cho mình đủ can đảm làm theo ý Chúa.

– Làm theo ý Chúa là sao? – Ông Tư lại thắc mắc.

– Là chấp nhận và sống vui với hiện tại của mình khi mà mình đã cố gắng hết sức, là tin rằng hiện tại này do Chúa muốn, là tốt nhất cho mình, cho gia đình mình.

– Tin rằng hiện tại này là tốt nhất cho mình – ông Tư lẩm bẩm – tối nào chú cũng cầu nguyện như vậy, hèn chi tui thấy chú vẫn bình an và sống vui được.

– Giữ được thói quen như vậy, tui cám ơn ông bà mình nhiều lắm anh Tư à! Hồi nhỏ tui đọc kinh ào ào, đọc riết rồi thuộc, mà có hiểu gì đâu. Giờ mới biết phải từ từ thì những điều mình đọc, mình thuộc mới thấm dần vào máu thịt mình…

Im vắng. Hình như mỗi người đang bận theo đuổi một thế giới riêng của mình. Ông Tư đang trầm ngâm, như đang suy nghĩ lung lắm về những điều mới mẻ vừa được nghe. Còn ba nó, ông đang dõi mắt nhìn lên khung hình ông bà nội trên bàn thờ, như đang dõi về một khung trời linh thánh nào đó…

Nhà dưới, nó chẳng buồn nhai cơm nữa. Cuộc đối thoại của hai người lớn mở ra quá nhiều điều cho nó phải suy nghĩ. Lần đầu tiên trong đời nó thấy ba mình lạ quá. Đằng sau cái vẻ bề ngoài trầm lặng và cam chịu, lúc này dường như nơi ông còn có một cái gì đó thẳm sâu, một cái gì đó linh thiêng, một cái gì đó nó không thể gọi tên được. Phải chăng cái chiều sâu linh thánh ấy vốn là một phần tiềm hữu trong mỗi con người, vốn trường tồn bất biến, và vốn thường bị người ta dẹp để vào một góc khuất?

Nắng chiều sắp tắt. Gió loạc xoạc thổi vào ngôi nhà tranh lặng lẽ. Cứ mỗi lần đón gió chiều, nó lại thấy nhớ quê da diết. Nó nhớ những ngày cả đại gia đình quây quần trong giờ kinh tối. Đó là những ngày êm đềm và đầm ấm nhất trong hoài niệm tuổi thơ của nó. Bất chợt nó nghe như trong gió có mùi hương trầu thoang thoảng, nhè nhẹ, dặt dìu, mà dai dẳng, mà như gần gũi lẩn khuất đâu đây…

Thủ Đức 16.05.2008
Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp TpHCM, 2014, tr. 45-55.

Ngày Về

Tôi cho xe chạy chậm lại, quẹo vào con đường trải nhựa mới tinh dẫn đến nhà ngoại. Đột nhiên ba bốn bóng người xuất hiện ngáng trước đầu xe tôi. Một bàn tay tóm lấy cổ áo, như muốn nhấc bổng tôi ra khỏi chiếc xe. Một gã thanh niên gằn giọng:

–  Mày ở đâu tới đây, hả?

Ánh đèn bin chói lòa chiếu thẳng vào mặt tôi. Một giọng khác hằn học:

–  Cho nó một trận để đừng bao giờ nó dám mò vào đây nữa.

Tôi chưa biết phải phân bua thế nào thì giọng lúc đầu lại cất lên:

–  Khoan đã, ai như là anh Nhân… anh Nhân phải không?

–  Ừ tôi là Nhân..

–  Anh Nhân, em nè, Hải nè, Hải ông địa nè!

Trong ký ức tôi chợt hiện lên cái tên Hải. Phải rồi, Hải ông địa.

–  Hải ông địa… sao lại thế này hả em?

***

Tôi trở về thăm quê sau gần mười năm gia đình mình chuyển đi làm ăn xa. Mười năm trên đất lạ quê người là cuộc hành trình dài cả gia đình tôi đi tìm con đường sống. Mười năm trong lòng tôi luôn da diết nỗi niềm hoài hương. Mười năm hì hục với việc học hành và xây dựng sự nghiệp cho riêng mình. Thật không ngờ, ngày trở về tôi phải đối diện với quá nhiều đổi thay. Tôi đã làm người lữ khách trên xứ lạ quê người, nuôi sống tâm hồn mình bằng thao thức hồi hương. Thế mà khi được trở về, đặt chân trên mảnh đất quê hương, tôi lại thấy mình vẫn chẳng khác một lữ khách. Lữ khách ở ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Ngày đó quê tôi còn là một ngôi làng nghèo nhỏ bé nằm dưới chân núi Touka thâm nghiêm hùng vĩ. Từ nhà tôi, phải băng qua một cánh đồng thật xa và dài thì mới có thể đến chân núi. Thế mà dáng núi vẫn nổi lên sừng sững như ở ngay sau lưng nhà. Mỗi sáng sớm, mặt trời từ từ nhô lên trên đỉnh núi. Những áng mây hồng lờ lững trôi trên cánh đồng. Ánh sáng đầu ngày dần trở nên rực rỡ trong suốt, làm nổi bật cả rặng núi to cao ngất. Mỗi chiều, ánh sáng dát vàng trên cánh đồng lộng gió. Rồi ánh sáng càng lúc càng nhạt dần, bỏ lại ngọn núi từ từ lui vào cái vè thâm u lờ mờ đầy huyền bí.

Hồi nhỏ tôi thích ngắm những cánh chim chiều bay về núi, thích hình ảnh những bác nông phu vác cuốc chậm rãi đi về làng, thích những làn khói chiều mỏng manh bay lờ mờ trong ánh hoàng hôn. Tôi mơ ngày chóng qua, thời gian chóng đến, để tôi cũng trở thành một bác nông phu thứ thiệt. Tôi mong được hít thở hương đồng gió nội cho căng đầy lồng ngực, rồi phì phà thở ra những lọn khói thuốc lãng đãng bay tít lên cao rồi tan loãng giữa trời quê…

Trên cánh đồng sau nhà tôi nổi lên nhiều gò mối xanh um rậm rịt dây leo. Biết bọn trẻ chúng tôi hay trốn ngủ trưa ra đó chơi, người lớn thường kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện rùng rợn về con ma núi. Nào là nó hay xuất hiện vào giữa trưa tròng bóng, hay hớp hồn người ta bằng tiếng hú u u như tiếng gió. Nào là nó hay dẫn người ta đi lòng vòng cho chóng mặt rồi đem dấu vào những gò mối rậm rịt… Bất chấp lời cảnh báo của người lớn, những gò mối mát rượi vào buổi trưa vẫn luôn hấp dẫn trí tò mò của bọn nhóc chúng tôi. Trong khi mấy đứa nhóc thích chạy nhảy la hét ầm ĩ trên cánh đồng, tôi lại thích ngồi một mình ngắm cánh đồng giữa trời trưa và hít thật sâu mùi thơm của đồng lúa. Tôi thích lặng lẽ để nghe tiếng cuốc đồng kêu buồn thê thảm. Những trưa hè, tôi lại mê tiếng tu hú gọi mùa trong nắng vàng của cánh đồng lúa chín… Những âm vọng từ cánh đồng vừa vang vang kỳ bí vừa gần gũi đến lạ lùng.

Dù không phải là người hiếu động, tôi vẫn là thủ lãnh của bọn nhóc trong xóm. Ban ngày chúng mặc sức chạy nhảy khắp mọi nơi trên cánh đồng, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Buổi tối, chúng tôi thường tụ tập trước khoảng sân banh của làng. Sau khi la hét thỏa thuê và chơi đủ thứ trò chơi dân dã, đứa nào cũng háo hức chờ nghe tôi kể chuyện. Tôi hấp dẫn bọn nhóc nhờ những câu chuyện cổ tích tôi nghe được từ bà nội, từ ba má tôi, và cả những câu chuyện mà tôi tìm đọc được trong chồng sách cũ của ông nội. Mỗi câu chuyện bao giờ cũng được tôi kết lại bằng một bài học làm người, có khi là những điều tôi nghe được từ người lớn, có khi là những điều do tôi tưởng nghĩ ra.

Lớn lên một chút, chúng tôi có nhiều cơ hội để khám phá núi rừng. Thì ra để đi từ cánh đồng sau nhà tôi đến ngọn núi Touka còn phải băng qua một cánh rừng nhỏ. Ven khu rừng, người ta phát hoang để trồng những vườn rau xanh tươi bạt ngàn. Mỗi vườn rau được bao quanh bởi dòng suối quanh co và những hàng tre gai xanh trĩu bóng. Tôi thích một mình lang thang trong cánh rừng nhỏ đầy bí ẩn. Dù không có cảm giác được an toàn giữa bốn bề cây cối, tôi vẫn không thể cưỡng lại được ham muốn khám phá bí ẩn đằng sau những bụi rậm, những hốc cây. Tôi ngỡ ngàng và ngưỡng mộ sức sống âm thầm mà mãnh liệt của rừng xanh. Tôi yêu cái âm điệu rì rào của gió rừng, yêu cái âm thanh lạo xạo của lá rừng rộn đều dưới mỗi bước chân qua. Càng đi vào sâu, cánh rừng càng lên cao, như để vươn mình gặp gỡ với ngọn núi. Tôi thích một mình len lỏi vào giữa những bụi cây hoang dại, để mỗi lúc một lên cao hơn, để được chiêm ngưỡng trước mắt mình cả không gian bao la thấp thoáng, để thấy cả cánh đồng trải dài dưới chân, để thấy cả cuộc sống như bé nhỏ bất động…

Dần dần, tôi trở thành vừa là một người bạn chí thân, vừa là một chủ nhân ông của cánh rừng nhỏ. Mỗi lần có cơ hội dẫn đám nhóc đi dạo chơi trong rừng, tôi tự hào giới thiệu với chúng nào là những con suối nhỏ nước trong veo, nào là những hốc rừng bí ẩn có thể treo võng nằm cả ngày mà không bị nắng, nào là những cây cà chí đã đến mùa trái chín đỏ có thể ăn được… Có lần chúng tôi rủ nhau đi xuyên qua cả cánh rừng, đến tận chân ngọn núi. Đứa nào cũng háo hức ngửa cổ để chiêm ngưỡng ‘tận mắt’ ngọn núi cao vút. Nhưng không đứa nào dám nghĩ tới chuyện leo lên núi. Chúng tôi sợ như sợ phải phạm vào điều gì đó vừa vĩ đại vừa thánh thiêng…

***

Nhà thằng Hải ở cạnh nhà tôi. Hồi nhỏ, có một lần nó bị đau quai bị, mặt sưng lên như ông địa. Nó chết danh ‘Hải ông địa’ từ đó. Thằng Hải sống với mẹ, từ nhỏ đã không biết mặt bố. Mẹ thằng Hải nói rằng bố nó đi làm ăn xa. Chẳng ai biết bố nó làm ăn xa là ở đâu. Mẹ nó là bạn thân của mẹ tôi. Mỗi lần tôi hỏi mẹ về bố thằng Hải, mẹ lại gắt: ‘chuyện của người lớn, con nít hỏi làm gì?’.

Không có bố cũng không có anh chị em, từ nhỏ thằng Hải đã quấn quýt lấy tôi như một người anh của nó. Có chuyện gì nó cũng một tiếng anh Nhân ơi, hai tiếng anh Nhân à. Gần gũi với nó nhiều, nên tôi cũng cưng nó nhất. Những tối mẹ nó bận đi công việc, nó qua nhà nằm nghe tôi kể chuyện. Rồi hai anh em ôm nhau lăn ra ngủ khì cho tới sáng. Tôi thường bảo vệ nó và sẵn sàng xách lỗ tai đứa nào dám gọi nó là thằng không cha.

Ngày gia đình tôi dọn nhà ra đi, thằng Hải ôm lấy tôi mà khóc. Lòng tôi cũng buồn vô hạn khi phải xa lìa mảnh đất thân yêu đã nuôi dưỡng tuổi thơ mình. Tôi không biết mấy đứa nhóc trong xóm sẽ lớn lên, sẽ được học hành như thế nào, nhưng chắc một điều là tụi nó sẽ có cơ hội để làm một bác nông phu trên cánh đồng quê. Còn tôi, ước mơ từ thuở nhỏ dường như đã vuột khỏi tầm tay của tôi rồi.

***

Có một dạo, người ta phát hiện ra tiềm năng làm du lịch của ngọn núi Touka. Nhiều người trên thành phố đổ xô xuống mua đất trong những ngôi làng dưới chân núi. Nhiều người không cưỡng lại được cái giá cao ngất ngưỡng đã lần lượt bán đi gần hết thổ cư nhà mình. Nhiều nhà chỉ còn giữ lại đủ đất cho một ngôi nhà xây mọc lên. Những con đường trải nhựa thẳng tắp chạy qua làng, nối quốc lộ vào đến chân núi. Hàng quán mọc lên, điện đường sáng choang. Đến lúc ấy dân làng mới giật mình phát hiện mình trở thành những người xa lạ ngay chính trên xứ sở của mình. Làng như cô gái đỏng đảnh bỗng vụt lớn thành nàng thiếu nữ điệu đàng. Làng nhanh chóng vứt đi những dấu tích của ngày thơ. Nhanh đến độ người ta không còn nhận ra nữa. Nhanh đến độ mỗi sáng giật mình thức dậy người ta không còn biết phải thay đổi thói quen sống của mình như thế nào, và mỗi tối khi đèn đường sáng lên người ta cứ tưởng mình đang còn ở trong một cuộc hành trình xa lắm, chưa được về nhà.

Rất sớm trong những ngày đổi thay ấy, mẹ thằng Hải tìm được một người đàn ông cho nó gọi là bố, dù đó không phải là người sinh ra nó. Người đàn ông xa lạ bỗng dưng dọn về ngôi nhà của hai mẹ con đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời và tương lai của nó. Một năm sau ngày thằng Hải có bố, giấy tờ đất đai đều được chuyển sang tên ông với tư cách là chủ hộ. Một tháng sau khi chuyển chủ, mẹ con nó phát hiện ra mảnh đất của gia đình đã bị bán cho người khác. Một ngày sau đó, ông bố hờ của thằng Hải biến mất khỏi làng, nhanh chóng và bí ẩn cũng như lúc ông đến.

Hải và một nhóm nhóc nhóc trong xóm trở thành ‘bảo kê’ cho mấy quán cà phê mới mọc lên. Thì người ta cũng phải kiếm chuyện gì đó cho đám choai choai tụi nó làm chứ. Có tụi nó là dân bản địa làm bảo kê, mấy cái quán cà phê vừa được an ninh, vừa thoát khỏi cái nạn phiền nhiễu bị ném đá mỗi tối, mà không cần bảo thì ai cũng biết tụi nó chính là tác giả của mấy trò phá phách con nít ấy. Người ta đâu có biết tụi nó vừa làm bảo kê, vừa gây sự với khách. Làng nó trở thành điểm thu hút khách từ nhiều nơi khác đến, để bao cái vẻ đẹp đẽ hiền hòa tiềm ẩn bỗng trở thành điểm chú ý của những cặp mắt tò mò xoi mói trơ trẽn. Người ta ùn ùn trèo lên ngọn núi Touka, trầm trồ, bàn tán, khen chê. Người ta đến rồi đi, thỏa mãn óc tò mò, rồi rũ xoành xoạch bụi bẩn để tiếp tục tìm đến một nơi nào khác hấp dẫn hơn. Người ta săm soi, tính toán, chạy trước đón đầu để xem có còn chút tiềm năng nào của vùng đất này chưa được khai thác, chưa được sinh lợi.

***

Nếu có điểm nào để tôi và thằng Hải có thể nói chuyện với nhau trong ngày gặp lại, đó là những kỷ niệm của tuổi thơ. Chìm vào thế giới của hoài niệm, hiện lên trước mắt tôi là một thằng Hải ông địa dễ thương, khác hoàn toàn với cái vẻ bề ngoài lầm lì bặm trợn lúc nãy. Tôi miên man với những câu chuyện vừa thực vừa mơ lục được từ trong kho ký ức của mình, từ chuyện người, chuyện làng, chuyện rừng núi, chuyện những mơ ước của hai anh em thời còn là trẻ con… Rồi bằng cái giọng bùi ngùi, thằng Hải tiếp tục dòng ký ức êm đềm ấy với những đổi thay biến động. Nó kết thúc: Hình như cuộc đời không thể nào có kết cục đẹp như trong những câu chuyện cổ tích anh Nhân ạ. Khi ông bà ngoại không còn giận mẹ em nữa thì mẹ đã mất rồi. Khi em biết yêu quý và kính trọng mẹ mình thì mẹ đã không còn nữa… Nhìn lại, hình như em đã sống uổng phí những ngày có mẹ.

Tôi trở về, để chứng kiến một khoảng trời mơ đang từ từ vụn vỡ giữa lòng mình. Nhưng hình như sự xuất hiện của tôi lại vô tình làm sống dậy một khoảng trời mơ tưởng đã bị vùi chôn và lãng quên trong lòng thằng Hải.

Tôi lại đi, nó vẫn là người ở lại. Hình như nó được sinh ra để gắn chặt đời mình với mảnh đất này, bất chấp những thăng trầm đổi thay, bất chấp bao phong ba nghiêng ngả. Tôi mong một ngày nó thực sự vươn vai lớn dậy, như cây còng còn sót lại ở đầu làng, rễ vẫn bám sâu vào đất mẹ, hiên ngang ngạo nghễ.

Thủ Đức 11.2007

Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp Tp HCM, 2014, tr. 56-66.

Góc Chợ Bình Yên

Cuộc đời này bất công lắm! Vậy mà không có sách vở nào trong nhà trường dạy nó chân lý đó cả. Nó đã quan sát và tự rút ra kết luận cho mình sau thời gian trở thành một thằng bán vé số.

Trong nhà, nó vốn là thằng anh cả hiền từ được mọi người thương mến. Sự thương mến đó hình như không có ở ngoài đời. Cầm xấp vé số trên tay, nó thường xuyên nhận được những cái lắc đầu dửng dưng, những cái phẩy tay từ khước. Ở trường, nó vốn là đứa học sinh năng nổ và là tâm điểm của những cuộc vui. Ra đời, nó thấy mình nhỏ nhoi và mất hút giữa dòng người tất bật xuôi ngược. Cầm xấp vé số trên tay, nó thấy mình như cũng bị cuốn vào cái bận rộn vội vã của dòng đời. Nó dáo dác tìm người có thể trở thành khách hàng, nó mời mọc, rồi đi, rồi lại dáo dác tìm khách…

Là thằng bán vé số, nó phải đi nhiều. Đi nhiều thì thấy nhiều, nên nó có nhiều cơ hội để suy nghĩ từ những điều tai nghe mắt thấy. Nó thường đi vào mấy quán nhậu, nơi có những ông ‘sần sần’ dễ ngẫu hứng bất tử và trở thành khách sộp. Thực ra thì cái ‘sộp’ của mấy ông khách đó, khi mua vài chục tờ vé số, đâu có thấm thám gì so với số tiền mà mấy ổng bỏ ra cho một cuộc vui. Có lần vô tình đọc được phiếu tính tiền của mấy ổng, nó ngỡ ngàng khi nghĩ rằng với khoản tiền đó, cả nhà nó có thể sống được trong cả tháng. Nó cũng hay vào các bàn bi-da độ. Mấy người ở đó có máu ăn thua, lại hay tin vào vận số, nên cũng hay mua vé số. Người thắng thì mua theo cách của kẻ cả muốn ban ơn, người thua thì mua may rủi để mong gỡ gạc… Những tờ tiền xanh đỏ vung ra chung độ làm nó choáng mắt. Chỉ cần một ‘cơ’ thôi thì mấy ông người lớn này đã có thể kiếm tiền nhiều gấp mấy chục lần số tiền nó kiếm được nhờ việc rảo cẳng suốt ngày, mời mọc hết cả hơi sức… Cuộc đời như thế thì thật là bất công!

Chiều. Sau một ngày rảo cẳng khắp nơi, tụi nhóc trong nhóm bán vé số thường họp nhau ở góc chợ để tính toán lời lỗ. Mấy đứa kèm thêm việc ghi số đề cho các đại lý bao giờ cũng lời bộn hơn mấy đứa bán vé số trơn, nhờ những khoản huê hồng từ các đại lý, đôi khi còn nhờ những khoản tiền thưởng của mấy người trúng đề. Nhóm mấy đứa bán vé số trơn có nó, bé Na và thằng Bảo bống. Tụi nó cũng thích thu nhập thêm, nhưng không thích ghi số đề. Nó thấy việc đó phải lén lén lút lút sao ấy, cả mấy cô chú làm ở đại lý cũng vậy, bao giờ cũng như phải giáo dác đề phòng.

Bé Na và thằng Bảo hay biểu nó kể chuyện đi học, chuyện trường, chuyện lớp. Bé Na nhỏ tuổi, nhưng có thâm niên trong nghề lâu năm nhất. Nó không biết bố mẹ là ai, từ nhỏ đã sống với người mà nó gọi là bà ngoại. Bà già, đau yếu quanh năm, nên bé Na chưa bao giờ có cơ hội cắp sách đến trường. Thằng Bảo bống thì còn cả cha lẫn mẹ, nhưng mà nó hay nói ‘thà không có còn hơn’. Có những ngày mưa gió, bán ế, nó và bé Na phải trích ra trong số tiền lời ít ỏi của mình vài ngàn cho thằng Bảo, để nó đủ ‘chỉ tiêu’ đem về nộp cho ông bố nát rượu. Những lúc đó nó mới thấy mình là người hạnh phúc. Nó còn cả cha lẫn mẹ, lại được học hành. Sau một ngày vất vả với cuộc mưu sinh, gia đình bao giờ cũng là tổ ấm đầy ắp tiếng cười của mấy anh em nó.

***

Một lần nó vào bán vé số trong một quán cà phê

– Chú mua dùm con tờ vé số đi chú!

….

– Chú…

– Dẹp mày! hổng thấy tao đang chơi điện tử hả

Cái ‘chú’ ngồi bệ vệ trên ghế quay lại trong khuôn mặt non choẹt của một thằng nhóc trạc tuổi nó.

– Hì..hì… thì em chờ anh chơi xong rồi mua dùm em vài tấm nghen. Sắp tới mùa đi học rồi, mua dùm đi, ủng hộ em có tiền mua sách vở hén…

Nó và thằng Dũng đã quen nhau như thế. Không ai ngờ là cuối cùng hai đứa nó lại học chung một lớp khi bước vào năm đầu cấp II. Hôm đó nó đạp xe ra trường mới để nhận lớp. Đang lò dò tìm tên mình trong danh sách lớp thì nó nghe có tiếng gọi đằng sau:

– Ê !

Nó giật mình, ngoái cổ lại để thấy một gương mặt đang ngạc nhiên:

– Thằng bán vé số, mày cũng đi học hả?

– Dạ, em tên là Gia… Anh cũng học ở đây hả?

– Tao học lớp này.

Nó cười bẽn lẽn:

– Vậy là em học cùng lớp với anh…

Dũng là con nhà giàu mà học hành thì lẹt đẹt. Hình như nó chẳng có động lực gì để học hành đàng hoàng hết. Mỗi chiều, trong khi nó tranh thủ cầm xấp vé số để kiếm thêm tiền phụ bố mẹ thì thằng Dũng vẫn ung dung chơi điện tử trong quán cà phê. Từ ngày gặp mặt Dũng trên trường, nó cố tình tránh cái quán mà Dũng hay ngồi. Dường như trong lòng nó vẫn có một mối mặc cảm thầm lặng với thằng bạn học. Nó chỉ muốn trở về với thế giới nhỏ bé của ba đứa nhóc bán vé số bên góc chợ, ở đó nó sẽ kể cho bé Na và thằng Bảo bống nghe những chuyện tốt đẹp về thế giới bình đẳng của những người được đi học, của trường lớp, thầy cô, bạn bè… bằng cả những điều có thực và những điều tốt đẹp mà nó tưởng tượng ra. Thỉnh thoảng tụi nó cũng kể cho nhau nghe về ước mơ của mình. Thằng Bảo mong có ngày lớn lên làm phi công để được tự do bay khắp bầu trời. Bé Na ước mong lớn lên làm cô giáo để dạy học cho những đứa bán vé số không biết chữ. Còn nó, nó mong trở thành nhà văn để ghi lại những câu chuyện về những mảnh đời mà nó gặp mỗi ngày. Trong ba đứa, hình như chỉ có nó là người có cơ hội để thực hiện ước mơ.

***

Mùa thi đến. Nó được phân công cùng học nhóm để kèm cặp cho thằng Dũng. Nó chỉ chờ Dũng từ chối để có cơ hội thoái thác, không ngờ thằng Dũng lại cười toe:

– Vậy thì được quá, tụi mình học tại nhà tao vào buổi chiều nghen.

Nó ngần ngừ:

– Hổng được đâu chiều nào em cũng phải đi bán vé số mà

– Thì mày cũng phải nghĩ để ôn bài thi chứ.

– Thì em ôn bài vào buổi tối.

– Thôi, chiều mày đến học chung với tao đi. Mày học giỏi, có gì tao hổng hiểu thì có thể hỏi mày. Mày giúp tao đi, tao mà thi điểm thấp chắc bố tao ổng đập tao chết quá…

Bố thằng Dũng là một người đàn ông có dáng đi bệ vệ và khuôn mặt khó đăm đăm. Hình như nó đã gặp ông ở đâu đó, trong quán bia thì phải. Ngày đầu tiên đến nhà thằng Dũng, nó chỉ dám lí nhí ‘chào bác’ rồi hai đứa nó vọt thẳng ra đằng sau. Dũng không thích học, chỉ học vì sợ bố mà thôi. “Mày phải học để biết tính toán với đời!”. Bố thằng Dũng nuôi con theo chế độ lương tháng, tùy theo điểm học lực trong tháng mà ổng phát tiền. Điểm càng cao thì tiền càng nhiều. Thằng Dũng hay nói với nó: “Tao mà học được như mày thì tha hồ có tiền để xài!”. Nó thấy cũng kỳ. Thời gian đi bán vé số nó nghe nhiều người nói khác: nếu chỉ để kiếm nhiều tiền thì có nhiều cách, cần quái gì phải học giỏi.

Học chung với thằng Dũng, nó mới phát hiện thằng này cũng có nhiều nét dễ thương và tội nghiệp. Bữa đầu tiên, Dũng hỏi nó về chuyện bán vé số. Như đã chuẩn bị sẵn, nó tuôn liền một hơi:

– Bán vé số thì có gì xấu đâu, nhà em nghèo thì em đi bán vé số để kiếm tiền phụ bố mẹ, em có ăn cắp ăn trộm gì đâu mà…

– Thì tao có nói là xấu đâu. Tao thấy mày giỏi quá, vừa lo được cho mình vừa lo được cho gia đình, chả bì với tao…

Hình như đó là lần đầu tiên nó thấy thằng Dũng chịu suy nghĩ nghiêm túc. Nó kể cho Dũng nghe chuyện nhà nó, về cả những niềm vui lẫn những nỗi lo toan vất vả, về cảm giác mắc cỡ khi ngày đầu tiên làm thằng bán vé số, về cảm giác hạnh phúc trước ánh mắt sáng ngời của mấy đứa em khi nó ôm về một chồng vở mới tinh mua bằng những khoản tiền đầu tiên mà nó kiếm được. Có nhiều tiền, nó nghĩ là thằng Dũng vui lắm, giống như niềm vui của nó khi thỉnh thoảng trúng mánh bán thêm được nhiều vé số và có thêm một khoản tiền lời. Thế mà có lần trong lúc học, thằng Dũng chép miệng nói với nó: ‘ước gì nhà tao được như nhà mày’. Lẽ ra đó phải là câu nó nói với thằng Dũng chứ! Đã bao nhiêu lần nó âm thầm so sánh hoàn cảnh nhà nó và nhà thằng Dũng. Nó nói:

– Nhà anh giàu, còn nhà em nghèo thí mồ..

– Nhà mày nghèo nhưng mà hạnh phúc. Còn nhà tao… chán lắm!

***

Bố mẹ thằng Dũng ly dị. Nghe nói mẹ nó sắp được đi Mỹ với một ông việt kiều nào đó. Nó thấy ái ngại cho Dũng, nhưng thằng này tỉnh bơ. “Vậy cũng tốt, tao sẽ không còn phải nghe tiếng cãi cọ om sòm của ổng bả nữa!” Bỗng nhiên nó nghĩ tới bé Na. Có lần bé Na nói với nó là thèm có mẹ, thèm được mẹ cầm roi đánh vào đít, để rồi sau đó thế nào cũng có lúc lại ôm nó vào lòng. Mấy tuần rồi nó không gặp mấy đứa nhóc trong nhóm bán vé số, nó thấy nhớ tụi bạn nhỏ, nhớ cái góc chợ bình yên lạ lùng…

Những ngày học với thằng Dũng, những lúc ra sức giảng giải cho thằng này kiến thức đã học trên lớp, nó thường nghĩ đến bé Na và thằng Bảo. Hai đứa này bằng tuổi tụi em nó, nhưng phải lam lũ và thiếu thốn nhiều thứ. Tại sao nó không thể vừa là một người anh vừa là một người thầy chứ. Nó cũng thích làm thầy mà. Nó dự tính góc chợ bình yên sẽ là nơi nó bắt đầu chắp cánh cho những ước mơ của hai người bạn nhỏ bằng những bài học vỡ lòng. Không cần biết người lớn đã nghĩ gì khi vô tình quẳng mấy đứa nhóc như tụi nó vào đời. Nó biết rằng mình vẫn có thể chia sẻ với bọn nhóc một phần tình thương và may mắn mà nó đã nhận được… Chắc thằng Dũng thế nào cũng ủng hộ và tham gia kế hoạch của nó!

Thủ Đức 12.2007

(Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp TpHCM 2014, tr. 35-44)

Như Cánh Chim Tìm Về Tổ Ấm

 

Đi Sài Gòn về, ba tôi dắt theo một ông anh mặt mũi lạ hoắc. Trước sự tò mò của mấy anh em tôi, ông tuyên bố: ‘nhà mình sẽ có thêm một thành viên mới’. Thành viên mới có dáng người ốm nhom ốm nhách, nước da trắng nhợt và cặp mắt ướt mèm như con gái. Cặp mắt ướt ấy hướng về phía má tôi, lúng túng với cái giọng rặc xứ Bắc: ‘Con chào mạ!’. Má tôi còn chưa biết phản ứng thế nào thì ba đã bật cười trước vẻ lúng túng của hai người. Ông nói lớn: ‘Thôi, má nó dắt thằng Dưỡng ra nhà sau cho con nó tắm rửa thay đồ. Tối nay tôi sẽ nói chuyện với cả nhà’…

Ba tôi gặp anh Dưỡng ở bến xe Sài Gòn. Trong chuyến hành trình trở về, ông quyết định nhận anh làm con nuôi. Đó là tất cả những gì anh em chúng tôi được biết. Sau đó là chuyện của ba người lớn: ba má tôi và anh Dưỡng. Không biết ba đã nói gì với má, ngày hôm sau tôi thấy má chăm sóc cho anh Dưỡng tận tình và dịu dàng như thể anh đã là một thành viên chính thức của gia đình tôi…

Tôi không thích cặp mắt ướt của anh Dưỡng. Con trai gì mà cặp mắt ướt nhèm, lúc nào cũng như sẵn sàng để khóc. Những ngày mới về, anh ngủ chung giường với tôi. Nửa đêm tôi thường phải giật mình thức giấc bởi tiếng thút thít bên cạnh mình. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu, tôi nhận ra cặp mắt ướt đang đăm đăm nhìn lên mái tranh. Cặp mắt đỏ đẫm nước. Cặp mắt ấy ám ảnh tôi hoài, nhất là những lúc nó chuyển từ trong veo óng ánh đến đỏ hoe ngập nước. Lúc đó tôi chưa hiểu rằng người ta có thể đọc được bão tố trong lòng của một người qua những đổi thay của ánh mắt. Ánh mắt sâu thăm thẳm hàm chứa bao điều bí ẩn…

***

Ba bảo tôi gọi anh Dưỡng bằng anh, vì anh lớn hơn tôi bốn tuổi. Tôi cũng thích, vì từ nhỏ tới giờ có được gọi ai là anh đâu. Tôi chỉ mơ có được một người anh ở cùng phe với tôi, bảo vệ tôi mỗi lúc tôi bị bọn nhóc xóm dưới tấn công.

Nhưng anh Dưỡng chẳng đáng mặt làm anh tí nào. Những ngày đầu về ở nhà tôi, chuyện gì anh cũng không biết. Anh làm gì cũng vụng về lóng ngóng như thể chưa bao giờ anh phải đụng tay đụng chân vào những công việc vặt vãnh trong nhà vậy. Đã thế, anh lại có dáng người yểu điệu, lại hay khóc. Khi tôi giới thiệu anh với mấy đứa bạn, sau một hồi dò xét, tụi nó trề môi: “Anh mày sao giống ‘bóng’ quá!”. Cũng phải, so với mấy đứa nhóc đen nhẻm ở đây, anh dường như chẳng có dáng vẻ gì làm cho chúng nó nể nang cả. Trong khi mấy đứa nhỉnh hơn tôi một hai tuổi thì người đã đen nhẻm cuồn cuộn cơ bắp, anh Dưỡng thì nước da trắng trẻo ẻo lả. Tụi nó ăn to nói lớn, anh thì lúc nào cũng như có vẻ sợ sệt nhút nhát.

Dường như anh Dưỡng chẳng thèm để ý đến những lời xầm xì mà bọn nhóc chúng tôi bàn tán về anh. Có đứa cả gan chạy ngang trước mặt anh rồi đột ngột hét lên “Anh bóng!”, anh cũng chỉ cười trừ… Thế mà có một lần anh khóc trước mặt bọn tôi. Đó là lúc thằng Tin, vốn là đứa tinh ranh nhất trong nhóm, sau một thời gian dò hỏi ở đâu đó, nó tuyên bố với cả nhóm “Tao biết rồi, anh Dưỡng mày là người thành phố. Người thành phố ai cũng trắng bóc như cục bột, người thành phố không quen những việc tay chân, chăn trâu thả bò như tụi mình.” Khoái chí với phát hiện đó, tụi nó kéo nhau tới hỏi thăm anh Dưỡng, biểu anh kể chuyện thành phố cho tụi nó nghe… Anh chỉ cười ậm ờ cho qua chuyện. Thằng Tin bực mình chửi đổng “Đ.m. người thành phố làm sang!”. Anh khóc. Hình như câu chửi thề của thằng Tin vừa chạm đến một góc mỏng manh nào đó trong tâm hồn anh. Hình như nó vừa khơi dậy điều gì đó chưa kịp ngủ yên trong anh…

Rồi bọn nhóc chúng tôi cũng sớm tha cho anh để quay trở về với những trò chơi mạnh bạo quen thuộc của tụi mình. Anh Dưỡng được tự do để một mình thơ thẩn giữa làng quê.

Ba tôi bảo không khí làng quê trong lành có thể giúp người ta sống khỏe mạnh, đời sống làng quê hiền dịu có thể chữa lành nhiều điều trong tâm hồn người ta. Điều đó đúng với anh Dưỡng. Sau vài tuần đầu bỡ ngỡ, anh Dưỡng nhanh chóng trở nên háo hức với nhiều điều lạ lẫm nơi quê tôi.

Có buổi đang ngủ trưa, anh khoèo chân tôi, bảo ra đồng chơi. Tôi cằn nhằn: “Ra đồng làm gì giờ này chứ?” Anh nói, ra đồng nghe chim cuốc nó kêu. Trời ạ! Mấy con chim cuốc nó kêu buồn thấu gan thấu ruột, có gì hay ho đâu mà nghe! Tôi lại cằn nhằn: “Thì anh cứ thò đầu ra cửa sổ là nghe liền, cần gì phải ra đồng giữa nắng chang chang vầy”… Anh cười hì hì: “Nghe vậy không có… lãng mạn”. Tới nước này thì tôi chịu thua.

Mà đúng là anh Dưỡng lãng mạn thật. Anh có thể thả hồn hàng giờ trên cánh đồng quê tôi. Với tôi, cách đồng quê đã trở nên quá quen thuộc, có gì khác ngoài lúa và gió! Nhưng hình như những người lãng mạn thì có cảm thức khác. Họ biết cách đọc ra cái gì đó đặc biệt từ những cái tưởng như rất tầm thường, bình dị của cuộc sống. Với anh Dưỡng, dần dần tôi học cách khám phá lại những nét tiềm ẩn ngay chính nơi làng quê của mình. Tôi nhắm mắt hít hít để tận hưởng mùi hương lúa, mùi hoa cỏ, mùi gió. Tôi lặng lẽ ngắm những cánh tầm gửi bám vào thân cây chủ để vươn lên. Tôi nằm hàng giờ ngửa mặt lên nền trời để ngắm những cánh diều chấp chới và lặng lẽ gởi những ước mơ của lòng mình theo gió…

Chiều chiều, nhìn những cánh chim bay về núi anh Dưỡng cứ bần thần ngơ ngẩn… Anh bảo con người có khi không bằng một con chim. Chim có tổ, bay đâu thì bay, tới chiều chim luôn quay về nhà mình. Mọi chuyện gác lại đằng sau. Không phải âu lo muộn phiền gì với ngày sống… Còn con người thì khác, có khi họ đi hoài mà chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện mơ về chốn cũ. Có khi họ kết thúc một ngày làm việc với bao bận rộn lo toan. Họ vất vả hơn nhiều so với con chim trên trời và cánh hoa ngoài đồng…

***

Sau một thời gian, anh Dưỡng tham gia giờ kinh tối với gia đình tôi. Anh nói anh thích cái bình dị, yên lành trong hạnh phúc của gia đình tôi. Anh nói anh thích cái nhịp sống nhẹ nhàng mà có gì đó sâu lắng. Anh nói hình như tất cả những bình yên ấy đến từ giờ kinh tối, là những lúc cả gia đình quây quần lại, hiệp ý hiệp lòng trong cái trầm lắng thánh thiêng.

Trong tủ sách nhà tôi, anh Dưỡng thích nhất là quyển “Uống Nước Nhớ Nguồn”, là sách về hạnh tích 117 thánh tử đạo Việt Nam. Có lần khi đang đọc sách, anh buột miệng: “Thánh này ở quê mình”… Tôi chưa kịp chạy lại để xem ông thánh đó là ông thánh nào, nghĩa là quê anh là cái quê nào… anh đã gấp sách lại, thẫn thờ. Dù tò mò muốn biết chuyện của anh, chẳng hiểu sao tôi lại e ngại lắm những lúc thấy anh thẩn thờ. Tôi sợ chạm vào điều gì đó mỏng manh trong lòng anh. Tôi sợ khơi lại điều anh đã muốn quên. Tôi sợ làm anh đau…

Rồi anh cùng bọn nhóc chúng tôi đến nhà thờ mỗi Chúa nhật. Hồi đó, từ làng đến nhà thờ, chúng tôi phải đi bộ đến hơn bốn cây số. Mỗi ngày Chúa nhật, con đường nhỏ nối ngôi làng tôi với nhà thờ như vào ngày hội. Con đường rộn vang tiếng cười tiếng nói. Chúng tôi đi dưới những hàng cây rợp bóng, miệng ngâm nga những khúc đồng dao giáo lý đã học được trên nhà thờ…

Ngày anh Dưỡng được rửa tội, mẹ tôi may cho anh chiếc áo sơ mi trắng tinh. Anh gục đầu khóc ngon lành trên vai mẹ tôi. Anh nói đây là lần đầu tiên trong đời anh nhận được chiếc áo từ tay một người mẹ, chiếc áo mẹ tôi đã thức đêm gần một tuần lễ để may cho anh. Bố tôi nói từ nay anh đã là con người mới, cần phải sống cuộc đời mới. Những cái cũ cần được gác lại đằng sau.

***

Sau năm năm, anh Dưỡng lớn lên thành một chàng trai cứng cáp. Nắng gió làng quê đã nhuộm màu da của anh nên trắng ngà. Cặp mắt ướt ướt đã có chút gì đó cứng cáp và kiên quyết. Anh trở nên một người anh thực sự của tôi.

Một ngày nọ, ba tôi từ xã về mang theo một phong thư. Ông lẳng lặng trao cho anh Dưỡng. Tôi thấy đôi bàn tay anh Dưỡng run run khi bóc lấy phong thư. Anh lặng người, rồi bật khóc… Ba tôi nhìn thẳng vào anh, kiên quyết:

– Thằng Dưỡng, con biết mà, đây đâu phải là gia đình của con. Dù cậu thương con như con trong nhà, nhưng cũng đến lúc con phải về lại với gia đình của mình rồi… Thời gian ở với gia đình cậu mợ có đủ để con lớn lên và nhìn vấn đề như một người lớn không? Đã đến lúc con phải đi rồi. Cậu tin tưởng con.

Trưa hôm ấy, anh Dưỡng lại rủ tôi ra đồng. Hai anh em chúng tôi lặng lẽ bên nhau. Cặp mắt anh Dưỡng lặng lẽ dõi về nơi xa thật xa. Trong cặp mắt buồn xa xăm ấy, tôi biết anh đã chờ đợi ngày này lâu lắm rồi. Cặp mắt của anh là cặp mắt mong đợi. Anh yêu mến gia đình tôi. Anh dần thích nghi với nhịp sống ở quê tôi. Anh háo hức khám phá bao điều lạ lẫm trên cánh đồng quê tôi. Nhưng quê hương trong anh vốn là một nơi khác.

***

Bố anh Dưỡng là một bác sĩ có tiếng ở một thành phố miền Bắc. Con đường công danh của ông càng ngày càng rộng mở thênh thang. Mẹ anh là một giáo chức có giao thiệp rộng. Mỗi người có một thế giới riêng. Họ dành cho nhau sự tôn trọng kỳ lạ, đến độ họ sống dưới cùng một mái nhà, nhưng hai tâm hồn hướng về hai thế giới khác nhau.

Họ có thế giới riêng, và cũng cố tạo nên cho anh một thế giới riêng. Thế giới của những trò chơi điện tử, những Games đắt tiền, những bộ đồ chơi hiện đại… Dường như họ chỉ yêu cầu anh một điều là ở yên trong cái thế giới của mình, đừng làm phiền đến họ…

Dạo ấy, bố anh Dưỡng vắng nhà thường xuyên hơn. Những chuyến công tác của ông cứ ngày một dài ra, có khi là vài tuần, có khi là vài tháng. Ngày ông trở về, bạn bè đến nhậu nhẹt linh đình. Họ ra về, để lại một cô thư ký trẻ đẹp trong căn nhà của gia đình anh. Mẹ bảo cô ấy là trợ lý của bố.

Anh đọc ra trong mắt mẹ chút ganh tỵ. Cặp mắt bà đã bắt đầu có vết nhăn của những dấu chân chim. Anh nể sức chịu đựng âm thầm của mẹ. Anh phục cái bản lĩnh phụ nữ của mẹ. Anh lặng lẽ sống và lặng lẽ ngưỡng mộ mẹ mình.

Một hôm, từ trường trở về nhà đột ngột, anh gặp mẹ đang ngồi lọt thỏm trong lòng của một người đàn ông, là bạn của bố. Có cái gì đó trong anh chợt vụn vỡ tan tành… Anh trân trối nhìn vào mẹ của mình cho tới khi hai hàng nước mắt chảy trào tức tưởi và mọi thứ mờ đi trước mặt anh. Anh cười ha ha và chạy ra khỏi nhà… Suốt ngày hôm đó, anh lang thang mà chẳng biết mình đi đâu nữa. Tối, về đến nhà sau, anh lại gặp bố đang quàng chặt cô thư ký trên lối vào. Có cái gì đó bùng nổ trong anh. Anh với tay lấy con dao trên sàn. Con dao sáng loáng vung lên đập vào người cô thư ký… Bỏ lại sau lưng tiếng hét thất thanh, anh thục mạng chạy băng mình vào đêm tối. Anh chạy mà chẳng cần biết mình chạy về đâu, miễn sao xa căn nhà của mình, xa cái nơi đã từng là mái ấm…

Chuyến hành trình phiêu bạt với những lần bị đi tàu ké, bị đuổi xuống, rồi lại chui lên, anh vào đến Nam. Anh gặp ba tôi trong buổi sáng ấy khi anh đã mệt lử và e dè khép mình vào trong một góc bến xe.

***

Từ khi nhận nuôi anh Dưỡng, ba tôi đã âm thầm dò hỏi và liên lạc với gia đình anh. Nhát dao dại dột của anh Dưỡng không giải quyết được vấn đề gì, nhưng dường như nó đủ để làm sực tỉnh một chút gì đó trong tâm hồn của những người đang mê mải trên đường nẻo sai lầm.

Bố anh Dưỡng lâm bệnh. Mẹ anh viết thư, mong anh quay trở về.

Tôi không quan tâm lắm đến chuyện của người lớn. Chỉ biết rằng từ nay, trong những ngày vui của tôi không còn anh Dưỡng nữa. Hình như đó cũng là kết thúc của tuổi thơ tôi…

***

Đưa anh Dưỡng ra xe, tôi hỏi: “Về nhà, lỡ người ta không cho anh theo đạo nữa thì sao?”Anh cười, cầm cây Thánh giá đang đeo trước ngực: “Anh thà tử vì đạo chứ không bỏ đạo đâu, chú em!” Tôi cười, bảo rằng anh bắt chước cái từ tử vì đạo này trong cuốn sách “Uống Nước Nhớ Nguồn”. Anh cười… Anh bảo tôi nhớ cầu nguyện cho anh, cầu nguyện cho gia đình anh. Anh bảo tôi cầu nguyện để khi trở về nhà anh có thể sống được những điều mình đã học từ cuộc sống nơi này… những điều không chỉ được gói gọn trong những cuốn sách…

Leo lên xe, anh quay đầu lại nhìn chúng tôi bằng cặp mắt ướt đỏ… Tôi biết cái cảm giác đó. Tôi cũng đã từng một lần được leo lên xe khi đi thi trên phố huyện. Tôi thấy như mình bị kéo đi, kéo đi xa mãi, cho đến khi cánh đồng thân quen chỉ còn là một khoảng trời lờ mờ, cho đến khi rặng núi cao ngất bao bọc ngôi làng mình chỉ còn là một đường kẻ mỏng manh, rất mỏng manh…

Nhớ về anh Dưỡng, tôi nghĩ đến cặp mắt trên xe đang ngoái đầu nhìn lại. Cặp mắt đỏ ướt lung linh, sáng cả một vùng trời ký ức.

Roma  – 10.07.2009

(Cao Gia An, S.J., Tập Truyện Ngắn Hoa Phượng Về Trời, Nxb Tổng Hợp, TpHCM, 2014)

Previous Older Entries

%d bloggers like this: